Thursday, August 10, 2017

Có Một Binh Chủng Nhảy Dù Bị Lãng Quên - Đại Tướng McCaffrey


The Forgotten South Vietnamese Airborne
By Barry R. McCaffrey
August 8, 2017
Lời nói đầu:
Vào năm 1993, trong quyển tự truyện “It Doesn’t Take a Hero”, Đại Tướng Norman H. Schwazkopf đã dành nguyên một chương để viết về cảm nghĩ, thời gian ông phục vụ trong Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam; Năm 1995, tác giả Michael Martin (Command Sergeant) xuất bản quyển Angles in Red Hats: Paratroopers of the Second Indochina War, gồm nhiều hình ảnh và bài viết của các cựu cố vấn Hoa Kỳ phục vụ trong Sư Đoàn Nhảy Dù; Năm 2009, Đại Tá hồi hưu Robert L. Tonsetic viết quyển “Forsaken Warriors: The Story of an American Advisor who Fought with the South Vietnamese Rangers and Airborne, về những kỷ niệm thời chinh chiến, phục vụ trong vai trò cố vấn với hai binh chủng này, Tiểu Đoàn 42 và 44 BĐQ, và Tiểu Đoàn 2 Dù; Đến năm 2012, Đại tá hồi hưu Mike McDermott viết quyển sách “True Faith and Allegiance: An American Paratrooper and the 1972 Battle for An Loc”, về thời gian ông có mặt với Tiểu Đoàn 5 Dù trong trận đánh An Lộc; Vào tháng 5 năm 2014, Thiếu Tá hồi hưu John J. Duffy viết tập thơ “The Battle for ‘Charlie”, về trận đánh Đồi Charlie của Tiểu Đoàn 11 Dù; Cuối năm 2014, Đại Úy Gary N. Willis phi công Hoa Kỳ, từng bay biệt phái cho Sư Đoàn Nhảy Dù viết quyển “Red Markers, Close Air Support for the Vietnamese Airborne, 1962-1975”, về các phi công bay yểm trợ không yểm, liên lạc với các cố vấn Hoa Kỳ trong các tiểu đoàn Nhảy Dù, cho những trận đánh của binh chủng Nhảy Dù. Cả sáu quyển sách này đều đề cao sự chiến đấu dũng mãnh của các người lính Nhảy Dù Việt Nam.
Những tưởng các quyển sách vừa nêu trên đủ nói lên được tấm lòng của các viên cố vấn Hoa Kỳ, dành cho các người bạn Nhảy Dù Việt Nam của họ. Nhưng, mới ngày hôm qua, ngày 8 tháng Tám, Đại Tướng hồi hưu Barry McCaffrey đã dành một sự ngạc nhiên cho người Việt tị nạn chúng ta, khi ông viết một bài viết ngắn trên báo New York Times [cho độc giả Hoa Kỳ], viết về những người lính Nhảy Dù Việt Nam, với tấm lòng cảm phục và sự tiếc nuối vô bờ.
Tôi xin phép chuyển dịch và đặt tựa bài viết: “Có Một Binh Chủng Nhảy Dù Bị Lãng Quên”.

Tôi đến Việt Nam vào tháng Bảy năm 1966, và cho nguyên cả năm sau tôi làm việc cố vấn với Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam. Đó là năm cuối mà chúng ta nghĩ là đang chiến thắng. Đó là năm cuối mà chúng ta có thể định nghĩa điều mà chúng ta nghĩ chiến thắng là như thế nào. Đó là năm của chủ nghĩa lạc quan, của gia tăng quân số và nhận lãnh cuộc chiến từ người Việt – và con số thương vong của Hoa Kỳ cũng cao hơn.
Vào cuối năm 1967, có 486,000 quân nhân Hoa Kỳ trên chiến trường. Con số lính Mỹ tử trận năm ấy gần như gấp đôi con số của năm 1966. Giữa tất cả các sự việc đó, sự hy sinh, lòng dũng cảm và việc hiến dâng của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa cho đất nước họ hầu như đã biến mất từ ý thức của giới truyền thông và chánh trị Hoa Kỳ.
Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, mà tôi đã tham gia với tính cách là viên cố vấn phụ tá cho tiểu đoàn, là một đơn vị chiến đấu ưu tú. Cho đến năm 1967, các người lính Nhảy Dù, với quân phục ngụy trang và mũ đỏ riêng biệt, đã lên đến 13,000 quân nhân, tất cả đều là lính tình nguyện. Những người như chúng tôi được vinh dự làm việc với họ, rất kinh ngạc bởi lòng dũng cảm và chiến thuật táo bạo của họ. Các viên sĩ quan và các hạ sĩ quan thâm niên là những người lính rất tài năng và có đầy kinh nghiệm chiến trường; thật là một điều dễ quên khi biết các người lính Hoa Kỳ là mới mẻ đối với đất nước Việt Nam, trong khi nhiều người trong bọn họ đã có mặt với cuộc chiến từ năm 1951.
Là các viên cố vấn, chúng tôi thường làm việc như một cán bộ hay sĩ quan liên lạc từ cấp tiểu đoàn và chiến đoàn/lữ đoàn. Chúng tôi đã dành một năm để chuẩn bị tại California, tính luôn cả 16 giờ đồng hồ của mỗi ngày để học về văn hóa và ngôn ngữ tại học viện Defense Language Institute. Tôi cũng hoàn tất xong khóa, học và hiểu để nói tiếng Việt. Các chiến thuật về phản du kích và huấn luyện hệ thống về võ khí thời Đệ Nhị Thế Chiến mà người Việt vẫn còn sử dụng thì học tại căn cứ Fort Bragg, North Carolina.
Chúng tôi làm việc với một vai trò rộng lớn; phối hợp yểm trợ pháo binh và không yểm, sắp xếp trực thăng chuyển quân và cứu thương, và cung cấp tin tức tình báo cùng giúp đỡ về tiếp liệu. Chúng tôi không cho lịnh, và chúng tôi không cần phải làm vậy. Các người bạn đồng nhiệm là những người đàn ông mà chúng tôi ngưỡng mộ, và họ vui thích có được chúng tôi – và hỏa lực Hoa Kỳ – cho họ. Chúng tôi dùng thức ăn của họ. Chúng tôi nói tiếng họ. Chúng tôi tin tưởng hoàn toàn vào họ. Tôi thường có một người lính Nhảy Dù mang máy truyền tin, và anh cũng là người lính cận vệ.
Thông thường, một toán cố vấn cấp tiểu đoàn như tôi bao gồm ba người: một viên đại úy Lục Quân Hoa Kỳ, một viên trung úy và một viên hạ sĩ quan, thường là một trung sĩ. Các viên trung sĩ là thành phần nồng cốt. Trong khi các sĩ quan sẽ thay phiên: đến và đi; các viên trung sĩ ở lại với các đơn vị được chỉ định cho họ cho đến cuối cuộc chiến – hay cho đến khi họ hy sinh, hay bị loại khỏi chiến trường.
Lần tôi được giới thiệu về Việt Nam lại là một kinh nghiệm đầy xương máu. Chúng tôi chuyển quân bằng các chiếc giang đỉnh Hải Quân và trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ, vào một con sông sình lầy của vùng đồng bằng Cửu Long, nằm ở phía nam Sài Gòn. Đây là trận chiến chả có vinh quang, chiến đấu và chết chìm dưới sình lầy dơ bẩn và nước mặn. Không có một chút phiêu lưu mà chúng tôi đã cảm giác khi học một khóa học của Biệt Động Quân. Ông đại úy của tôi, là một sĩ quan chuyên nghiệp và cũng là người cố vấn trưởng tài năng, tử trận. Về lại căn cứ, tôi giúp mang thi hài ông xuống trực thăng. Nhưng đây chỉ là một khởi đầu.
Sau bốn tháng trong ‘tua’ với Nhảy Dù, chúng tôi liên quan đến một trận đánh lớn và đẩm máu, tiếp sức cho các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ phía bắc Đông Hà, gần bờ biển, nằm về hướng bắc của Nam Việt Nam. Hai trong các tiểu đoàn của chúng tôi được trực thăng vận vào vùng Phi Quân Sự, tìm kiếm và chận đứng một đoàn quân quan trọng của Bắc Việt, đang di chuyển về hướng Nam. Công tác này trở thành ba ngày chiến trận khốc liệt và đầy máu. Viên cố vấn trưởng bị hy sinh. Người hạ sĩ quan dũng cảm, Thượng Sĩ Rudy Ortiz bị trúng đạn đầy người. Anh kêu tôi lắp băng đạn vào khẩu súng M-16 của anh và đặt súng lên ngực, để cho anh có thể “chiến đấu cho tới chết” như những người lính còn lại của chúng tôi (may mắn, anh thoát chết).
Chúng tôi có cả trăm thương vong và gần như bị tràn ngập. Nhưng những người lính Nhảy Dù chiến đấu dũng mãnh và bền bỉ. Trong lần nguy khẩn, với sự yểm trợ của không yểm và hải pháo, chúng tôi tái phản công. Viên tiểu đoàn phó vẫn bước thẳng người trong lúc đạn bay đầy quanh để đến ngay hố cá nhân tôi. “Trung Úy”, ông bảo tôi, “đây là giờ phút chúng ta mất mạng”. Tôi vẫn cảm thấy rợn da khi nhớ tới những lời nói của ông.
Trong chiến trận, lính Nhảy Dù không bỏ rơi đồng đội đã chết hay bị thương trên chiến trường; ngay cả võ khí cũng vậy. Trong một trận đánh khác, Tommy Kerns, người bạn cùng khóa tại trường West Point là một người to lớn, chơi football cho trường, bị thương nặng và bị kẹt trong một cái rãnh hẹp. Những người lính Nhảy Dù Việt Nam đang ở với anh, nhỏ con hơn anh nhiều, đã cố gắng nhưng không thể kéo anh ra khỏi rãnh. Thay vì rút lui và bỏ mặc anh, họ giữ vững tuyến và chiến thắng cuộc chiến đấu hung tợn cho cái thân xác to lớn của anh. Anh thoát chết nhờ vào lòng dũng cảm của họ.
Các viên cố vấn Hoa Kỳ và hầu hết các đơn vị của Sư Đoàn Nhảy Dù đóng quân ngay và chung quanh thành phố Sài Gòn. Chúng tôi yêu thích sức sống và sự náo nhiệt của thành phố. Chúng tôi yêu thích văn hóa, ngôn ngữ và luôn cả người Việt. Chúng tôi hãnh diện một cách điên cuồng về tính cách của chúng tôi với Mũ Đỏ. Chúng tôi biết chắc là cả thế giới đã ghen tương về nhiệm vụ của chúng tôi – chúng tôi đang làm việc chung với đơn vị ưu tú nhứt của đất nước. Được trả lương với chiến trận và cộng thêm bằng dù, chúng tôi có vẻ như có cả đống tiền. Chúng tôi sống trong những tòa nhà có máy lạnh. Chúng tôi còn trẻ trung, có một chút ít khờ dại, nhưng luôn mạnh bạo. Các viên đại tá, trung tá Hoa Kỳ chỉ huy đám cố vấn là những người lớn tuổi, trầm tĩnh và là những người đàn ông dày dạn chiến trường; họ đã từng là những chiến binh Nhảy Dù đánh những trận đánh tệ hại hơn trong thời Đệ Nhị Thế Chiến và Chiến Tranh Triều Tiên.
Đời sống cố vấn trong Sư Đoàn Nhảy Dù rất khó mà đoán biết cho được. Công việc của sư đoàn là phục vụ với tính cách tổng trừ bị, luôn được mang đến chiến trường bất cứ lúc nào mà các viên tư lịnh cảm thấy tình hình nguy kịch. Một tiểu đoàn Nhảy Dù hay nguyên cả một chiến đoàn/lữ đoàn sẽ được báo động cho cuộc chuyển quân khẩn cấp trong lúc giữa đêm. Chúng tôi sẽ ngồi chật cứng bên trong các chiếc vận tải cơ của Không Quân Hoa Kỳ hay Không Quân Việt Nam, các chiếc máy bay đang đậu với máy nổ vang, từng hàng dài tại căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt, sát cạnh Sài Gòn. Đạn dược sẽ được cấp phát, có đôi khi, cả dù nữa. Một kế hoạch chiến trường gấp rút ban hành.
Và rồi – hỗn loạn, địa ngục mở rộng. Các tiểu đoàn sẽ được mang đến những chỗ nào mà họ cần đến. Chúng tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào, và sẽ biết được chúng tôi đang ở giữa một trận chiến. Rất nhiều viên cố vấn và cả ngàn người lính Nhảy Dù mà tôi đã chiến đấu chung đã không trở về lại từ trong các cuộc hành quân đó. Tôi vẫn có thể nhìn thấy các gương mặt non trẻ ấy. Đại Úy Gary Brux, Đại Úy Bill Deuel, Trung Úy Chuck Hemmingway, Trung Úy Carl Arvin. Người lính mang máy rất trẻ của tôi, Binh Nhứt Michael Randall. Tất cả đều hy sinh. Dũng Cảm và Tự Hào.
Việt Nam không phải là “tua” đầu chiến trận của tôi. Sau khi tốt nghiệp từ trường Võ Bị West Point, tôi gia nhập Sư Đoàn 82 Nhảy Dù cho sự can thiệp “khủng hoảng” Dominican Republic vào năm 1965. Chúng tôi được mang đến một hòn đảo và dẹp sạch đám Cuba – cảm hứng nổi dậy của bọn cộng sản, và ở lại như một đoàn quân bảo vệ hòa bình. Chúng tôi đã nghĩ chiến trận là như vậy, và rồi chúng tôi trở về lại căn cứ Fort Bragg, và mong mỏi được đến Việt Nam – nhiều viên trung úy trong tiểu đoàn chiến đấu của tôi nhảy lên chiếc jepp, lái thẳng đến Bộ Tư Lịnh Lục Quân ở Washington để tình nguyện cho chiến trường Việt Nam. Chúng tôi đã nghĩ sẽ bị bỏ lỡ chiến trận. 
Giờ thì chúng ta đã biết câu chuyện kết thúc ra sao. Hai triệu người Việt đã mất mạng. Hoa Kỳ mất 58,000 và có 303,000 thương vong. Hoa Kỳ sa vào cuộc nội chiến đắng cay và rối loạn về chánh trị. Lúc ấy thì chúng tôi không biết gì hết. Tôi rất lấy làm hãnh diện được chọn phục vụ với Nhảy Dù Việt Nam. Người vợ đẹp đẽ mới vừa cưới mà tôi rất thương yêu, biết tôi cần phải đi. Cha tôi, một viên Tướng của Lục Quân, sẽ vinh danh tôi, nếu tôi chẳng may tử trận.
Tất cả các sự việc này đã biến mất đi 50 năm trước đây. Các người lính trong Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, những người đã may mắn thoát khỏi việc sụp đổ của miền Nam Việt Nam, hoặc là trốn thoát qua ngả Cam Bốt [Thái Lan] hay trải qua cả một thập kỷ trong các trại “cải tạo” tàn bạo kia. Gần như hầu hết những người đó rồi cũng đến được Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Chúng tôi có một hội cố vấn người Mỹ cùng các chiến hữu người Việt, và có cả một Đài Tưởng Niệm cho các Cố Gắng của chúng tôi tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington. Tại nơi ấy, chúng tôi gặp gỡ mỗi năm và nhớ lại những kỷ niệm đã cùng nhau chiến đấu, như thế nào. Chúng tôi đội Mũ Đỏ. Chúng tôi cười vang với các câu chuyện xưa kia, nhưng có một điều rất đau lòng là chúng tôi đã mất mát quá nhiều, và điều ấy lại là con số không, không có được một sự đền bù, tưởng thưởng nào. 
Nhiều người đã luôn hỏi tôi về các bài học trong chiến trận tại Việt Nam. Những người trong chúng ta đã từng chiến đấu chung với Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam là những người không bao giờ lên tiếng. Tất cả những điều chúng ta luôn nhớ và biết đến là sự chịu đựng dũng cảm và lòng quyết tâm của các Binh Nhì Nhảy Dù Việt Nam, những người lính trẻ luôn thẳng bước vào chiến trận. Họ không có được các tượng đài vinh danh, chỉ trừ trong tâm tưởng và ký ức của chúng ta.
Barry McCaffrey (@mccaffreyr3) served as an adviser in the Vietnamese Airborne Division. He retired as a four-star general, later served as the Clinton administration drug czar and is now a national security commentator for NBC News.
Link: https://mobile.nytimes.com/…/o…/south-vietnam-airborne.html…
Link: https://www.nytimes.com/…/opin…/south-vietnam-airborne.html…
.............
Little Saigon/9 tháng 8 năm 2017
Phuc Nguyen


 


Troops of the Third Batallion, 60th Infantry, 9th Division, 2nd Brigade arrive in the United States after being withdrawn from Vietnam in 1969. Credit Bettmann, via Getty Images
I arrived in Vietnam in July 1966, and for the next year I served as an adviser with the South Vietnamese Airborne Division. It was the last year we thought we were winning. It was the last year we could define what we thought winning would be. It was a year of optimism, of surging American troop strength that largely took over the war from the Vietnamese — and of wildly expanding American casualty lists.
By the end of 1967, there were 486,000 American troops in the battle. The number of Americans killed in action that year roughly doubled from 1966. Amid all of that, the sacrifice and valor and commitment of the South Vietnamese Army largely disappeared from the American political and media consciousness.
The South Vietnamese Airborne Division, which I joined as an assistant battalion adviser, was an elite combat unit. By 1967 these paratroopers, with their camouflaged jump uniforms and distinctive red berets, had grown to 13,000 men, all volunteers. Those of us privileged to serve with them were awe-struck by their courage and tactical aggressiveness. The senior officers and noncommissioned officers were extremely competent and battle hardened; it’s easy to forget that while the Americans were new to Vietnam, many of these men had been at war since 1951.
As advisers, we essentially acted as staff and liaison officers at the battalion and brigade levels. We had spent a year preparing in California, including 16-hour days of cultural and language immersion at the Defense Language Institute. I ended up with a sub-fluent command of spoken Vietnamese. Counterinsurgency tactics and training in the World War II-era weapons systems that the Vietnamese still used took place at Fort Bragg, N.C.
Photo
The author, right, with Col. James B. Bartholomees, after a battle south of Danang, South Vietnam, in 1966.
We played a wide range of roles: coordinating artillery and airstrikes, arranging helicopter lifts and medevac and providing intelligence and logistical support. We didn’t give orders, and we didn’t need to. Our Vietnamese counterparts were men we admired, and they were glad to have us — and American firepower — with them. We ate their food. We spoke their language. We trusted the Vietnamese completely. I usually had a paratrooper as a bodyguard and as a radio operator.
Normally, a battalion-level advisory team like mine consisted of three men: an American Army captain, a first lieutenant and a senior noncommissioned officer, usually a sergeant. The sergeants were the core: While officers rotated in and out, many of the sergeants stayed with their assigned South Vietnamese units until the end of the war — or until they were killed or knocked out of the fight.
My introduction to Vietnam was a bloody experience. We deployed by American Navy assault boats and Army helicopters into the swampy river delta south of Saigon. This was combat without glory, fighting and drowning in the saltwater muck. There was none of the adventure that we felt in Ranger school. My captain, an incredibly professional and competent senior adviser, was killed. Back at base, I helped carry his body off the helicopter. It was only the beginning.
Four months into my tour with the airborne we were involved in a giant, bloody battle supporting American Marine units north of Dong Ha, near the coast in the northern part of South Vietnam. Two of our battalions were inserted by helicopter into the Demilitarized Zone to check a significant force of North Vietnamese moving south. It turned into three days of intense and bloody combat. My senior adviser was killed. Our incredibly courageous noncommissioned officer, Master Sgt. Rudy Ortiz, was riddled from head to foot. He asked me to load his M-16 and put it on his chest so that he could “die fighting” with the rest of us (luckily, he survived).
Photo
We took hundreds of casualties and came very close to being overrun. But the South Vietnamese paratroopers fought tenaciously. At the critical moment, with supporting air and naval fire, we counterattacked. The executive officer of my Vietnamese battalion walked upright through heavy automatic weapon fire to my foxhole. “Lieutenant,” he told me, “it is time to die now.” It gives me chills to remember his words.
In combat, the South Vietnamese refused to leave their own dead or wounded troopers on the field or abandon a weapon. In another battle one of my West Point classmates, Tommy Kerns, a huge Army football player, was badly wounded and stuck in a narrow trench as his airborne battalion tried to break contact with a large North Vietnamese force. The Vietnamese paratroopers with him, all much smaller than Tommy, couldn’t haul him out of the trench. Rather than withdraw and leave him, they held their ground and won a violent engagement over his giant wounded body. He survived because of their courage.
The America advisers and most of the Airborne Division were stationed in and around Saigon. We loved the energy and fun of the city. We loved the culture and the language and the Vietnamese. We were terribly proud of our status with the Red Berets. We were sure the entire world envied our assignment — we were working with the country’s elite. With combat and airborne pay, we had what seemed like a ton of money. We lived in air-conditioned quarters. We were young and harebrained and aggressive. The American colonels and lieutenant colonels who ran the advisers were older, stable and battle-hardened men who had seen much worse combat in World War II and Korea as paratroopers.
Life as an adviser in the Vietnamese Airborne Division was unpredictable. The division’s job was to serve as a strategic reserve, to be inserted into combat whenever commanders needed an edge. A Vietnamese airborne battalion or a full brigade would be alerted for emergency deployment in the middle of the night. We would cram into American and Vietnamese Air Force transport planes, which sat, engines roaring, in long lines at Ton Son Nhut Air Base, near Saigon. Live ammo would be issued. Sometimes parachutes were issued. A hurried battle plan.
And then — mayhem. The battalions deployed to wherever they were needed. We could head anywhere in the country and find ourselves in the middle of a firefight. Many of the America advisers and hundreds of the Vietnamese paratroopers I served with did not come back from these operations. I can see their young faces still. Capt. Gary Brux. Capt. Bill Deuel. Lt. Chuck Hemmingway. Lt. Carl Arvin. My very young radio operator, Pvt. Michael Randall. All dead. Brave. Proud.
Vietnam wasn’t my first combat tour. After graduating from West Point, I joined the 82nd Airborne Division in the Dominican Republic intervention in 1965. We had deployed to the island and quashed the Cuban-inspired Communist uprising, and then stayed as an Organization of American States peacekeeping force. We thought that was what combat meant, and when we returned to Fort Bragg, we were eager to get to Vietnam — several lieutenants from my infantry battalion jumped into a car and drove all the way to Army headquarters in Washington to volunteer for the battle. We thought we were going to miss the war.
Now we know the end of the story. Two million Vietnamese probably died. The United States lost 58,000 and 303,000 were wounded. America descended into a bitter and convulsive political civil war. We knew nothing of it then. I was so very proud to have been selected to serve with the Vietnamese airborne. My new and beautiful wife, whom I loved dearly, knew I had to go. My dad, an Army general, would honor me if I was killed.
All this was over 50 years ago. The Vietnamese Airborne Division soldiers who survived the collapse of South Vietnam either escaped through Cambodia or went through a decade of brutal “re-education” camps. Most of them eventually made it to the United States. We have an association of the American advisers and our Vietnamese comrades, and there is a memorial to our efforts at Arlington National Cemetery. We gather there every year and remember how we fought together. We wear our red berets. We laugh at our old stories, but there is a deep sadness that we lost so many, and that it came to nothing.
People often ask me about the lessons of the war in Vietnam. Those of us who fought with the Vietnamese Airborne Division are not the ones to ask. All we remember and know is the enduring courage and determination of the Vietnamese Airborne privates pushing forward into battle. They have no monuments except in our memories.

Barry McCaffrey (@mccaffreyr3) served as an adviser in the Vietnamese Airborne Division. He retired as a four-star general, later served as the Clinton administration drug czar and is now a national security commentator for NBC News.

Saturday, March 11, 2017

Chuyện Kỷ Niệm 40 năm trận chiến Khánh Dương tháng 3 1975

Khánh Dương. Thật sự là Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù mới là Tiểu Đoàn tham dự trận Khánh Dương. Có rất nhiều người biết, nhưng không có ai đính chính chắc tại vì cùng là Nhảy Dù cả ai cũng vậy thôi. Nhảy Dù luôn nêu cao tinh thần đồng đội đó là truyền thống của Binh Chủng Nhảy Dù. LĐ3/ND đổ quân vào Khánh Dương trên hai chiếc Dương Vận Hạm Theo đích thân Tố Quyên thì chiếc Dương Vận Hạm LST 404 chở các TĐ 2,5,6 và ĐĐ3 Trinh Sát /ND. Còn chiếc Dương Vận Hạm LST 504 chở BCH/LĐ3, các ĐĐ Công Binh, Công Vụ, Truyền Tin và TĐ2 Pháo Binh Nhảy Dù. Chiếc LST 404 chở quân tới trước.Anh em Nhảy Dù ở trên đó cũng khá lâu trước khi xuống cảng vào sáng sớm Phía Hải quân cho người nhái và tàu nhỏ vây quanh LST 404, quăng lựu đạn liên tục xuống nước đề phòng đặc công VC..
Trời gần sáng thì TĐ 2,5,6 và ĐĐ 3 Trinh Sát đổ quân xuống Cầu Đá. tôi gặp lại MĐ Liễu Hùng Nghị SQ /Tiền Sát /TĐ5 (không nhớ đề lô cho ĐĐ nào ) người bạn cùng khóa TĐ16 Đồng Đế, cùng khóa Dù 329, cùng khóa CBSQ/PB lần cuối gặp nhau ở cây số 17 Huế. Tụi tôi rủ nhau ra ngoài uống cà phê.
Hai thằng siĩ quan nhỏ xíu mang 2 cây Colt 45 xệ xệ đi bộ ra ngoài cổng. Quân Cảnh có hỏi nhưng rồi cũng cho hai đứa ra. Chúng tôi lựa quán đối diện cổng có hai cô bán hàng khoảng tuổi 17,18t ngồi xuống uống cà phê tán dóc với hai cô. Thì ba của hai cô bước ra. Khi biết chúng tôi là Nhảy Dù từ Đà Nẵng về. Ông không nói gì cả mà đi vào trong. Một lát sau ông lái chiếc La Dalat ra kêu 2 cô gái nói gì đó tôi không nghe. Tán dóc với 2 cô khoảng 15 phút tôi đứng dậy tính tiền, nhưng 2 cô nói: Hai anh đợi ba em một chút, còn tiền cà phê ba em dặn không được lấy. Chúng tôi ngồi xuống tiếp tục tán dóc không quên lợi dụng cơ hội xin tên và địa chỉ để nếu có dịp ra thăm hay thư từ làm quen.
Một lát xe La Dalat về không phải một xe mà là 3 chiếc trên xe đầy những bánh mì, thuốc lá, đồ hộp v.v. toàn là đồ ăn liền. Ông nhờ tụi tôi chuyển vào trong cho anh em Nhảy Dù. Không có gì là cảm động hơn, tôi ko nói được lời gì cả. Cái gì đó nghẹn trong cổ họng của mình. Một lát tôi mới có thể nói: Chuyện nầy để cháu dẫn chú vào gặp cấp cao hơn vì tụi con không có thẫm quyền. Sau khi cảm ơn 2 cô chúng tôi dẫn ông về cổng và trình bày sự việc. Xong chúng tôi chào ông về lại đơn vị của mình. Một lát sau bánh mì, thuốc lá, đồ hộp được phát ra cho anh em..
Không những vậy khi đoàn GMC chở LĐ3/ND đi qua thành phố Nha Trang tiến về Dục Mỹ thì rất là nhiều đồ đa số là thuốc lá từng cây ,từng gói một quăng lên xe cho anh em. Không thể diển tả được tình cảm mà đồng bào Nha Trang dành cho anh em Nhảy Dù. Bao nhiêu mệt mỏi, thất vọng, bất mãn vì tưởng được về Sài Gòn sau cuộc hành quân đầy gian nan, vất vả tại Thường Đức tan biến hết. Anh em LĐ3/ND vào Khánh Dương với quân số hao hụt nhưng khí thế hào hùng chưa từng có. LỰC BẤT TÒNG TÂM, SỨC NGƯỜI CÓ HẠN. Mũ Đỏ LĐ3/ND đã làm hết những gì có thể. Máu của anh em đổ tràn trên đèo Phượng Hoàng để đền đáp ân tình mà người dân Nha Trang đã dành cho họ.
Tôi được laãnh lương tháng 3, tháng lương cuối cùng của đời lính ở đèo Phượng Hoàng trước khi cuộc chiến xảy ra. Lảnh lương có tiền tôi rủ Hiệp và Hùng 2 khinh binh Tr/Đội4/ĐĐ21 ra Dục Mỹ chơi. ĐĐ21/TĐ2 đang đóng an ninh cho Pháo Đội C2/TĐ2/PB/ND. Chúng tôi quá giang được xe GMC về Dục Mỹ trên xe có khoảng 10 Nhảy Dù của các TĐ/ND tôi có cấp bực lớn nhất. Xe ngừng ngay tại chợ Dục Mỹ. Chúng tôi vừa xuống xe thì từ trong quán nước bên đường một ông mặc đồ Dù hai bông mai đen một gạch dưới vẩy tay gọi lại đây lại đây. Tôi mặt mày xanh lè kỳ nầy là tiêu rồi. Nhanh như con sóc tôi la lên: "Tất cả tập họp, anh em sửa sang lại quân phục. Hiệp làm chuẩn một hàng ngang trước mặt ông. Ch/U Nguyễn Phạm Phúc SQ: 75/118249 trưởng toán 9 người trình diện Tr/Tá chờ lệnh". Tôi la to và rõ ràng từng chữ một cả chợ cũng còn nghe. Ai cũng quay lại nhìn chúng tôi chắc rất ư là khâm phục quân phong, quân kỷ của Nhảy Dù. Trúng tâm lý ông hiền từ hỏi Đi đâu vậy? Sao tóc dài vậy. Tôi trả lời:Thưa Tr/T tụi em xuống chơ hớt tóc và mua ít đồ. Ông bảo:Nhớ về đơn vị sớm.Tôi mừng hơn bắt được vàng trả lời dạ, rồi đàng sau quây hô to: Tan hàng cố gắng rồi dọt lẹ, hú hồn... Nhưng vẫn nhớ bảng tên Phát đó là Tr/Tá Phát LĐT/LĐ3/ND.
Chúng tôi ăn sáng ở Câu Lạc Bộ A của Trường Pháo Binh, xong ra chợ Dục Mỹ mua đồ và uống cà phê. Cô Loan chủ quán nhận ra tôi ngay. Trước đây 7 tháng tôi là khách hàng thường trực của cô khi học CBSQ/PB. Cô có dáng người cao nước da trắng của con gái Đà Lạt Ở tới chiều chúng tôi đón xe về lại Đơn Vị. Tối đó thiết giáp rút lui, không hiểu tại sao lại bắn loạn xạ hai bên đường như sợ bị phục kích làm chết và bị thương lính của TĐ6. Tờ mờ sáng ĐĐ21 được lệnh hành quân. Ai rút không biết ĐĐ21 tiến lên giải vây cho TĐ6/ND đang bị tấn công. Tr/Uý Hà ĐĐT/ĐĐ21 điều các trung đội tấn công với pháo binh yểm trợ. Đóng quân trên đỉnh đồi nhỏ cách Quốc Lộ 21 khoảng trăm mét sau lưng BCH/TĐ6 Tôi bắn pháo vào cứ điểm xung quanh Buôn Ea Thi bên kia đường, đạn nổ từng tràng ngăn các cuộc tấn công. VC mấy lần bắn sẻ bằng CKC. tôi suýt chết trong gang tấc. Tr/Úy Hà cho Hiệp khinh binh bò lên nhưng bị một CKC khác bắn bể tay cầm M16. VC ở khắp nơi tấn công nhưng không làm gì được phòng tuyến vẫn vững vàng. Nhưng VC không để yên cho các căn cứ Pháo của ND. Với quân số đông áp đảo họ dể dàng bọc hậu ,xuyên hông tấn công các căn cứ PB/ND. Không có quân tác chiến bảo vệ căn cứ PB/ND đều bị tràn ngập. Sau đó VC không đánh ĐĐ21 nữa mà đi vòng qua chúng tôi xuống Quốc Lộ 21 về Nha Trang, đi từng đoàn trên quốc lộ như đi diển hành theo đội hình thiết giáp và bộ binh tùng thiết.
Tr/U Hà ĐĐT21 phải cho mở đường máu xuống núi, Hiệp khinh binh dẫn đầu ĐĐ21 chỉ với BCH và Trung Đội 4 tràn xuống băng qua quốc lộ hội quân với BCH/TĐ6/ND của Tr/T Thành TĐT/TĐ6. Vừa tấn công xông qua được quốc lộ tôi nghe tiếng của Th/Sỉ Hùng Thường Vụ ĐĐ21: Pháo Binh có đây không? Vì sợ tôi theo không kip. Đó là lần cuối cùng tôi nói chuyện với Th/Sỉ Hùng (Th/Siĩ Hùng đã vĩnh viển ở lại cùng với rất nhiều anh em khác) Hiệp khinh binh chạy theo dụ́i vào tay tôi cây AK47 bá xếp và bảo: Ông giữ phòng thân khi nào về Nha Trang bán lấy tiền xài rồi cười ha hả. Chưa chi mà đã lo sợ về Nha Trang không có tiền xài. Trên nét mặt của người lính ĐĐ21 không có chút gì là lo lắng hay sợ sệt họ kỷ luật, hồn nhiên như là đang tham dự hành quân thao dợt . ĐĐ21 và BCH/TĐ6 cắt rừng ,lội suối , nhổ chốt hướng về Dục Mỹ. VC phản ứng không kịp trong 2 ngày đầu rồi cái gì tới thì phải tới.Khi gom đủ quân VC bao vây và tấn công ĐĐ21 và BCH/TĐ6 Quân số ít ỏi.không liên lạc, tiếp tế,thiếu đạn dược và yểm trợ tan hàng là đều không tránh khỏi. Ngày 2 tháng 4 năm 1975 ĐĐ21 và BCH/TĐ6 tan hàng. Tr/T Thành TĐT/TĐ6, Tr/U Hà ĐĐT21 bị bắt.
ĐĐ21 và BCH/TĐ6 bị phục kích vào rạng sáng ngày 2 tháng 4 năm 1975. Sau đợt tấn công đầu tiên và bất ngờ của VC vào đội hình ĐĐ21 anh em hy sinh rất nhiều, Tr/u Hà sắp xếp lại đội hình ra lệnh chiếm cao điểm vì ĐĐ21 đang ở triền suối Tôi theo Tr/u Hà xung phong lên chiếm cao điểm cây AK của Hiệp bây giờ mới hữu dụng. Tôi làm một tràng lấy tinh thần rồi theo chân Tr/u Hà và Trung Đội 4. AK, lựu đạn rải theo tôi phóng người nằm bẹp dưới gốc cây. Trái lựu đạn bay bổng rớt lăn trước mặt chừng 3 mét. Vì đang trên đà phóng người tới té xấp cạ̣nh gốc cây nên tôi bất lực khi thấy lựu đạn. Lấy tay ôm mặt dí người sát đất, Ầm tôi mở mắt ra sau tiếng nổ, thấy xác Việt Tr/Đội 4 gục xuống. Việt cũng xung phong cũng trên đà phóng người tìm chổ ẩn núp vô tình đè trên trái lựu đạn hoặc là che mảnh cho tôi. Sống chết số trời. Tôi định thần nhìn qua thì không thấy Tr/u Hà đâu nữa chắc là đã lên tới đỉnh rồi. Tôi dạt qua trái cùng anh em. AK lại nổ nhiều anh em dính đạn ngả gục. Tôi đáp trả siết cò hết luôn băng AK dọt vào bụi rậm cắt đường xuống suối trở lại. Súng vẫn nổ dòn khắp nơi. Tôi men theo suối theo sau là 3 ND. Mà lạ lùng càng xuống suối tiếng súng càng xa lần chúng tôi tiếp tục đi.. Tôi tìm một chỗ kín đáo gần con suối cả 4 người núp mình vào đó đợi trời tối sẽ̉ đi. Một lát sau chúng tôi nghe nhiều tiếng con gái giọng Bắc nói chuyên hình như đang lấy nước và giặt đồ. Thì ra chổ nầy là hậu cần của VC. Chúng tôi đã vô tình lọt và ổ VC mà cũng không ai ngờ là có 4 ND đang nằm kế bên. Đúng là chỗ nguy hiểm nhất là chỗ an toàn nhứt.
Rừng già nên trời tối rất nhanh. Học bài học xương máu vừa qua nên tôi quyết định đi sâu vào rừng càng xa Quốc Lộ 21 càng tốt trước khi đi xéo về Dục Mỹ Tôi chọn Dục Mỹ vì bản đồ tôi cầm chỉ tới đó thôi biết đi đâu bây giờ và lúc nào cũng nghĩ Dục Mỹ đang là tuyến chiến đấu vì có cả 3 Quân Trường ở đó (QT Pháo Binh, QT Lam Sơn, và QT Biệt Động Quân). Bỏ lại cây AK mà Hiệp đưa hết đạn rồi, hỏa lực còn lại 2 M16 với 2 băng đạn và Colt 45. Tôi dẫn đầu với chiếc la bàn trong tay người sau vịn vai người trước. Trời tối đen như mực chúng tôi lên đường. Đi suốt đêm tới trời sáng, cẩn thân băng qua trảng tranh lớn tôi hối đi nhanh để vào lại trong rừng thì nghe tiếng gọi Nhảy Dù, Nhảy Dù. Xa chừng khoảng 30 mét là hai bộ đồ ND đứng lên từ bụi cây thấp kêu chúng tôi. Đó là 2 ND của TĐ5 thất lạc mấy ngày rồi gặp chúng tôi nên mừng lắm. Thế là chúng tôi có 6 người 2 TĐ2, 2 TĐ5 và 2 TĐ6 và thêm 1 con chó nhỏ. Chúng tôi đi không nghỉ để chạy với thời gian. Đi không kể ngày đêm khi mệt hoặc đói thì nghỉ nấu cháo húp mỗi người một ít xong cứ thế mà đi không hề biết ngày giờ chi cả. Dọc đường chứng kiến xác của anh em ND rải rác khắp nơi. Tôi cẩn thận tháo thẻ bài cất giữ để khi về được Dục Mỹ thì báo tin đã gần chục cái. Lương thực thì chỉ có 2 bịch gạo tươi mà Nương đệ tử đã nhét vào túi cho tôi. Còn 2 đệ tử Nương và Hồng theo tôi không biết giờ nầy ở đâu đã lạc từ cú "tấp pi" đầu tiên của VC chắc là theo Tr/uy Hà. Hai bịch gạo và 1 con chó là lương thực của 6 người chúng tôi và đó cũng là lần đầu tiên trong đời tôi ăn thịt chó. Một ngày vào buổi trưa chúng tôi nghe nhiều tiếng trực thăng bay trên đầu như là đang đổ quân tuy không cách nào liên lạc được nhưng lại tăng niềm tin cho chúng tôi. Tôi cắt xéo đường hướng về Dục Mỹ và cuối cùng cũng tới.
Từ trong rừng trên cao nhìn xuống Dục Mỹ sao im lìm quá không giống như đánh nhau. Và tôi cũng không nghe tiếng pháo binh từ lâu lắm rồi. Chúng tôi vẫn đổ xuống Dục Mỹ vào buổi sáng sớm, lẻn vào một chòi canh rẩy của ai đó. Chúng tôi nhổ khoai mì nấu ăn xong lại tiếp tục vào rừng đi bọc vòng qua hướng khác.Tôi đã đoán được chuyện gì đã xảy ra với Dục Mỹ. Đói khát tả tơi chúng tôi lại xuống làng, lần nầy tôi quyết định xuống vào buổi chiều để tối đột nhập vào làng gặp dân hỏi thăm tin tức và tính đường khác chớ không thể ở mã̉i trong rừng được. Cũng như lần trước 4 người canh 2 người nấu. Ăn xong trời chưa tối chúng tôi nằm nghỉ rồi ngủ quên lúc nào không biết. Cái gì đó chọt vào ngực làm tôi thức dậy hai họng súng AK đang chỉa vào tôi. Hai ba người đè tôi xuống và trói chúng tôi lại. Khi biết tôi là sĩ quan người cán bộ trung niên tới hỏi đơn vị và cấp bực rồi dẫn chúng tôi ra ngoài lên xe Lam chở về chợ Duc Mỹ. Chúng tôi bị bắt bởi đơn vị quân dân mới thành lập ở Dục Mỹ nên cũng dễ thở. Họ bỏ chúng tôi ngay chợ Dục Mỹ. Ngay lúc đó có vài tên đơn vị chánh qui mặc dồ xanh đi qua, chúng chửi thề giọng Bắc gầm gừ như muốn ăn tươi nuốt sống chúng tôi."Địt Mẹ làm sao tụi bây xuống tới đây được". Dân chúng bu lại rất đông nhìn chúng tôi như che chở. Người cán bộ trung niên nói gì với tụi chính qui, mấy tên đó hậm hực bỏ đi. "Mấy anh ăn gì chưa để em nấu mì cho mấy anh" tiếng người con gái nghe quen quen. Tôi nhìn lên thì ra là CÔ LOAN chủ quán cà phê mà tôi quen. Người cán bộ trung niên không nói gì. Im lặng là đồng ý. Chúng tôi được đưa vào trụ sở nhìn vào tấm lịch treo tường NGÀY 9 THÁNG 4 NĂM 1975. Chúng tôi đã 7 ngày lang thang trong rừng kể từ ngày xa đơn vị. Cô Loan mang lại cho chúng tôi 6 tô mì và nước uống. Riêng tôi là ly chanh đường quen thuộc mà tôi thường gọi khi tới quán CÔ uống nước vì tôi không biết uống cà phê, và nhiều miếng thịt bò nằm dưới đáy tô mì. Ôi kỷ niệm không bao giờ quên được của những ngày cuối tháng 3.

Tặng và Tưởng Nhớ Các Bạn Tôi Những Người Một Lần Áo Hoa và Mủ Đỏ
Dạo đó anh đi mười bảy tuổi
Thiên Thần Mũ Đỏ Xứng đời trai
Vũ trụ mình ta chân đạp gió
Không gian lơ lửng bắt mây trôi
Ngang dọc tung hoành vùng hỏa tuyến
Giữ yên bờ cõi đất Phương Nam
Thần Kinh thương nhớ tình lưu luyến
Đồng Khánh trường tan má đỏ hồng
Anh rời Hiệp Khánh vào chiến địa
Phong Điền nối tiếp Động Ông Đô
Thường Đức vang danh quân giặc khiếp
Vu Gia vượt sóng giữ sông xanh
Một không sáu hai đầy xác cộng
Sư ba lẻ bốn chốc tan tành
Mùa xuân năm ấy hoa mai rộ
Đại Lộc bình yên có Hoa Dù
Tháng ba mười sáu theo quân lệnh
Lướt sóng quân hành xuôi giang Nam
Bỏ lại sau lưng nhiều tình lỡ
Tiễn Anh nước mắt ướt vai nầy
Về mái trường xưa qua Đồng Đế
Được nhìn tượng đá đứng ngàn năm
Có người em gái nằm xỏa tóc
Để đợi anh về dẩu trăm năm
Nha Trang chào đón đoàn quân lạ
Dục Mỹ chiều nay ngập bóng Dù
Quân Đoàn Hai thối theo lộ 7
Để lại Nhảy Dù chốt Khánh Dương
Hai sư đoàn cộng tràn nhau xuống
Một Lữ Đoàn Dù gắng tiến lên
Tứ bề thọ địch Đèo M'Rack
Xung phong tiếp viện Buôn Ea Thi
Ngạo nghễ trên tay viên đạn cuối
Nhảy Dù hai chữ cố gắng thôi

Thiên Thần gẫy cánh ngàn thây đổ
Khánh Dương thương nhớ Lữ Đoàn 3
Chí trai vị quốc không danh lợi
Vong thân bất nhục đáng anh hùng
Máu đào tươi thắm màu Mũ Đỏ
Xác thân tô điểm áo Hoa Dù
Nợ nước muôn đời trên vai nặng
Ơn nhà trọn kiếp mãi trong tâm.


Những ngày cuối tháng 3 / 2015
Mũ Đỏ Cù Lũ Nhí

Tuesday, November 22, 2016

Viết, từ nỗi lòng người mẹ..


( Cám ơn Phạm Hòa với trang mục :
 Chiến Sĩ Vô Danh Việt Nam )



(Album hai)
Khi trời bắt đầu se lạnh, khi  những chiếc lá vàng chấp chới chao nghiêng  theo gió cuộn tả tơi trong giòng xe cộ cũng là lúc, mùa lững thững vào đông..

Mỗi lần, lúc chiếc xe rẽ ngang góc bưu điện thị xã, tôi như thấy mình, thưở nào không xa lắm, lễ mễ ôm thùng quà bước lên bậc thềm lát gạch, vượt qua  thùng thư sơn mầu xanh đậm đặt cạnh mấy chỗ bán báo tự động..

Những thùng quà tôi gửi cho con thời  gian con ở Phi Châu, ở Iraq và  đâu đó trong chiến trường Afghanistan..


Những thùng quà đóng bằng lớp giấy dày mầu kaki , nhét  đầy  bánh , kẹo, mì gói..và nữa, là trái tim nặng trĩu của người mẹ. Ngày tháng qua,  nước mắt tôi đã dần khô nhưng khi nhìn căn phòng con với đồ đạc bỏ lại, lồng ngực tôi lại râm ran nhói đau , tựa hồ tôi vừa va vập một tảng đá lớn, nó làm tôi khó thở và đau đớn..

Nỗi đau đó, trở lại hôm nay khi tôi nhìn những người lính trẻ, chỉ bằng tuổi con tôi, có người lớn hơn, chỉ như em trai tôi..Hình ảnh những người lính ấy khi ra trường cũng gầy gò như con tôi ngày mãn khóa..Gương mặt mỗi người sao quá gần gũi quen thuộc với tôi, trong ánh mắt của mỗi người là niềm vui  tuổi trẻ , là nỗi khát khao được sống, được yêu. Họ có thể chọn cho mình một cuộc sống bình yên, đi học, ra trường, đi làm, xây dựng gia đình… Nhưng đổi lại, họ lại chọn cho mình một con đường khác, một con đường binh nghiệp hiểm nguy, bất trắc.

Những người lính ấy, họ ra đi khi còn quá trẻ, có người chưa qua tuổi hai mươi..có người vừa tử trận cách đây chỉ vài ngày..

Ngôn ngữ làm sao viết  cho hết , diễn tả cho hết, và lòng tôi thương họ xiết bao. Tôi thương cả những người mẹ mất con.. Nỗi đau đớn như xát muối vào thịt da sưng tấy, vào  vết thương không bao giờ lành lặn , và suốt đời , họ mang một trái tim tan vỡ ngay cả  khi còn sống.

Tôi may mắn hơn họ, con tôi trở về bình yên sau những năm quân ngũ, nhưng nỗi nhớ thương lo lắng cho con mình khi nó vượt ra khỏi tầm tay, khi nó đang đối diện với cái chết từng ngày, tôi và họ, đã một thời  chung một nỗi đau.

Chung những đêm dài không ngủ..Chung những đêm quay quắt nhớ con.

Tuổi trẻ của tôi đã từng trải qua  những năm tháng chiến tranh. Lúc ấy, bởi  tôi còn rất trẻ, cuộc sống thành phố quá  bình yên nên chưa bao giờ hình dung rõ nét, hoặc cảm giác mất mát chưa hề chạm đến tận cùng nên khi lìa nhau, biết xa nhau và không hẹn trước ngày về, tôi luôn chấp nhận điều đó bằng nỗi cam chịu, bởi, cũng như bao nhiêu người khác, khi có người yêu là lính chiến.
 Nhưng khi nhìn con đeo ba lô trở lại đơn vị, trong tôi trở lại cảm giác mất mát lẫn đau đớn không thể nói thành lời, nó là gánh nặng triền miên đè trĩu lòng tôi khi mỗi bước con xa dần. Con chim đang háo hức đập cánh bay về vùng trời rộng kia, nhiều thứ đang chờ đợi  thử thách  và nó không hề biết rằng, nó đã bỏ lại căn nhà trống trải vừa lấp đầy nỗi đau đớn khôn lường.

Tôi sợ hãi. Tôi thật sự mất thăng bằng. Không biết điều gì sẽ xảy đến cho con tôi, cảm giác y hệt như ngày xưa mỗi lần tôi tiễn anh đi..Nếu con tôi không trở về , khoảng đời kế tiếp chúng tôi sẽ sống ra sao.
 Ai sẽ bù đắp nỗi mất mát mà tôi phải gánh chịu ở phần đời còn lại ?

Những người lính trẻ, họ đến trong cuộc đời lặng lẽ và ra đi lặng lẽ.. Những giọt nước mắt tiếc thương rồi cũng rơi dần vào quên lãng. Chỉ người còn sống suốt đời mang vết thương tật nguyền, không bao giờ lành lặn. Vĩnh viễn. Không bao giờ.

Nên, ngoài nỗi thương xót cho những người lính tử trận, tôi thương lắm những người phụ nữ đã mất con, mất chồng nơi chiến trường.. Tôi thương giọt lệ của người mẹ khi đón con về nhà trong tiếng kèn truy điệu não nùng bi ai  và những giọt nước mắt không ngừng chan hòa cùng cơn mưa thấm đẫm ngoài trời.. Tôi thương tiếng khóc thảm thiết của người mẹ vừa mất con, thương những ngón tay của em, của chị, của vợ  ôm chặt lá cờ tưởng như ôm lấy một phần hơi ấm người thân mà lát nữa đây, khi nắm đất ném lên, tiếng khóc lịm dần  là trùng trùng vĩnh biệt.

Tôi nhìn rất lâu hình ảnh của những người lính trẻ đã từ bỏ cuộc đời mình, từ bỏ tuổi thanh xuân, độ tuổi đẹp đẽ nhất, tràn đầy hy vọng nhất để vào quân ngũ. Chấp nhận gian khổ. Chấp nhận tai ương. Họ đã nối tiếp những ước mơ dang dở của cha ông dù không chiến đấu cho một quê hương Việt Nam.. Họ, kế thừa tiền nhân, viết tiếp trang sử truyền thống oai hùng của Tổ tiên để bảo vệ chính nghĩa tự do, cho chính nơi chốn đã cưu mang họ và gia đình.

 Họ trả dùm chúng ta món nợ trên quê hương thứ hai nầy.

Nếu ngày nào, con tôi muốn trở lại đời quân ngũ, tôi cũng sẽ chấp nhận điều đó vì ít ra, trong huyết quản của con tôi, của hằng bao nhiêu người lính trẻ Việt nam đang chiến đấu cho đất nước nầy vẫn còn luân lưu những giòng máu Việt  kiêu hùng.

Can đảm và bất khuất.

Không hề lùi bước trước kẻ thù..

Không sợ chết. Không ngại hy sinh.


Xin gửi một đóa hoa thương tiếc cho những người lính đã hy sinh vì lý tưởng tự do, vì hòa bình thế giới.

Xin gửi một đóa hoa xót xa cho những bà mẹ, những người cha, người vợ..Những người đã phải chịu đựng sống  phần đời còn lại của mình với trái tim tan nát. 

Gửi lời cầu nguyện bình yên đến những người lính  đang trong quân ngũ hằng ngày đối mặt với mọi chết chóc,hiểm nguy. Và cả lời bình yên cho gia đình họ.

Xin ơn trên giữ gìn họ như đang gìn giữ chúng ta.

Nhật Tân PBC72

Chú thích : 
Album một :
Hàng 1, từ trái sang phải :  Hạ sĩ TQLC Alan Đinh Lâm .
                                            Hạ sĩ TQLC Lê Ngọc Bình . 
                                            Hạ sĩ TQLC Denny Đoan Tran                                                                             
Hàng 2, từ trái qua phải :  Hạ sĩ Bộ Binh Trần Quốc Bình. 
                                Trung sĩ Bộ Binh Nguyễn Ngọc Long
                                 Hạ sĩ TQLC Nguyễn Lee văn Te
 

Album hai : hàng dọc:
hàng 1)  Trung sĩ nhất KQ Nguyễn Văn Thanh
                Trung sĩ nhất Bộ binh Trần Hai Du
hàng 2)  Hạ sĩ nhất Bộ Binh Nguyễn Hồng Dan
        Thượng sĩ Lực Lượng Đặc Biệt Nguyễn Mạnh Tùng
                Hạ sĩ TQLC Victor R Lữ
hàng 3) Hạ sĩ TQLC Andrew S. Đặng
               Binh Nhất Bộ Binh Ngô Q Tan

Sunday, November 6, 2016

Những Ngày Tháng 4-1975, Đẫm Máu Và Nước Mắt Tại Tiểu Khu Bình Thuận

Kính nhớ tất cả những anh hùng đã vị quốc vong thân
Riêng Phạm Ngọc Cưu, Dụng văn Đối, Mai Xuân Cúc, Huỳnh văn Quý, Lê Văn Thắng.
Bình Thuận nằm về cực nam của miền Trung nước Việt, đông là biển với những đồi cát mông mênh chạy dài từ Cà Ná tới tận Cù My, qua những làng chài , xóm lưới Long Hương, Phan Rí Cửa, Mũi Né, Hàm Tân. Nhiều nơi trước năm 1975, không hề có bước chân của người Phố Thị, ngoài lính tráng. Miền tây của tỉnh, cũng là phần đất cuối cùng của rặng Nam Trường Sơn, nên có nhiều núi cao sông rộng, tuy nhiên người Phan Thiết , dù là ai chăng nửa cũng không bao giờ quên được hai địa danh Tà Dôn-Tà Cú, nằm sát trên con đường quan lộ số 1, trước đây không bao giờ thiếu mìn chông, bom đạn. Ngoài khơi có đảo Phú Quý, đông đúc, nhiều thắng cảnh đẹp, dân chúng giàu có nhờ ngư nghiệp.
Trước năm 1975, Bình Thuận có chừng 25 vạn người, với đủ sắc dân, Kinh, Chàm, Nùng, Hoa, Thượng, sống chung đụng khắp nơi trong tỉnh. Riêng Thị xã Phan Thiết có 50.000 người. Ngay từ thời Pháp thuộc, Bình Thuận nổi tiếng khắp nước, là chốn " Rừng tiền, biển bạc" và là vựa cá mắm của Đông Dương, còn thóc gạo đủ nuôi sống dân trong tỉnh, nên trong trận đói năm Ất Dậu 1945, địa phương vẫn không bị ảnh hưởng.
Về chiến thuật, Bình Thuận nằm án ngữ, trên con đường sắt xuyên việt Hà Nội-Sài Gòn và quốc lội số 1. Là phân nhánh của đường mòn HCM, từ Đà Lạt, Lâm Đồng , tới các mật khu Nam Sơn, Lê Hồng Phong, Ba Hòn, Cà Ná, Vĩnh Hảo..vào tới Rừng Lá, Cù Mi xuống tận các cửa ngỏ tiếp tế từ biển của VC tại La Gàn, Hòn Rơm, Mũi Điện. Do các yếu tố trên, từ khi Quốc Tế Cọng Sản xâm nhập VN vào thập niên 30, cho tới ngày kết thúc cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1945-1975), luôn nuôi mộng cưỡng chiếm cho bằng được vùng đất thép của Chính Phủ Quốc Gia, mà giặc luôn gọi là thành đồng cách mạng, ngang cỡ Củ Chi, Mõ Cầy, Ba Tơ, Dầu Tiếng. Nhưng người Bình Thuận tuy hiền hòa, chỉ biết lam lũ làm ăn nhưng đa số là con cháu của dân Ngũ Quảng, vốn có bản chất lời ngay nói thật. Bởi vậy ngoài một số trí thức khoa bảng no cơm ấm cật, thụ hưởng tiền bạc của tổ tiến, nên không biết làm gì, ngoài việ chạy theo gót giặc để được nổi tiếng xấu, hay có một số đồng bào sống trong vùng xôi đậu, bắt buộc phải theo VC, còn hầu hết dân bản địa, có cơm ăn áo mặc và hít thở được không khí tự do, đều tin tưởng vào Quốc Gia. Cho nên sự kiện, tỉnh Bình Thuận bị VC tấn công ba lần vào dịp Tết Mậu Thân 1968 nhưng vẫn giữ vẹn thành phố. Ngoài ra, đây cũng là tỉnh duy nhất ở Trung Phần, vào những ngày cuối tháng 4-1975, đã quyết tâm, ngăn chống giặc Bắc xâm lăng, cho tới khi không còn chịu nổi, trước sự tấn công biển người, với xe tăng, đại pháo, mới đành bỏ quê hương mà đi trong ngấn lệ.
Tháng 8-2004, John Pilger một nhà làm phim người Úc, đã thực hiện bộ phim " trận đánh cuối cùng", nói về chiến tranh VN, theo óc tưởng tượng Tây Phương , cùng đơn đặt hàng của Hollywood và VC. Ai cũng biết, lịch sử nào cũng đẫm máu và nước mắt, chứ không phải chỉ riêng có lịch sử chiến tranh VN. Điều đáng chú ý là con người, không thể nào sống ngoài lịch sử của nước mình, cho nên dẩu ta có là nạn nhân của lịch sử, cũng phải biết quên khổ đau của chính mình, để chia chung niềm tự hào của những anh hùng dân tộc, đã xem nhẹ cái chết vào những giờ phút tử thần. Ngoài ra,ai cũng biết lịch sử của cọng sản, là toàn cảnh chủ nghĩa hiếu chiến và đấu tranh giai cấp, nên đừng có lạ khi được xem qua bộ phim trên, với nội dung " kẻ nào không đứng chung với ta đưới một màu cờ, đều là kẻ thù thua trận ". Tóm lại, lịch sử không phải là văn chương, nên không thể ngồi một chỗ để hư cấu, mà là những trang kể về các anh hùng và tiểu nhân có thật, được viết bằng máu và nước mắt của chính nhân vật trong cuộc, để chấp nhận phê phán theo quan niệm đạo lý cùng với chính nghĩa. Nhưng văn chương, xét cho cùng từ khởi thủy cho tới chung cuộc, vẫn là tiếng rên nghẹn của thân phận con người. Còn lịch sử thì trái lại muôn đời không dời đổi, giống như chuyện dài về các đế quốc, triều đại xưa nay, trong đó có đế quốc Việt Cộng
Chắc chắn người Bình Thuận dù ở trong thế hệ nào chăng nữa, qua hơn 300 thành lập, cũng đều tự hào về những trang sử vẻ vang của quê hương mình, từ lúc khởi đầu, cho đến những ngày cuối cùng tháng 4-1975, đẫm đầy máu lệ, càng đọc càng thắm thiết và trân trọng, cho tất cả những quân dân đã một thời bỏ mình vì nước..
1- Phan Thiết, Những Ngày cuối Tháng 4-1975
Theo sử liệu, Chưởng Cơ Nguyễn Hửu Cảnh, một tướng lãnh tài danh của Đàng Trong, thời Chúa Nguyễn Phúc Chu, đã chỉ huy đạo quân Đại Việt đầu tiên, tiến vào miền Thủy Chân Lạp bằng đường bộ,sau khi Châu Panduranga cuối cùng của Vương quốc Chiêm Thành mất vào năm Quý Dậu 1693. Đoàn quân khi qua sông Mai Nương, thuộc xứ Pan Rang, bắt đầu tiến dọc vào vùng gió cát ven biển lúc đó, hầu như không có bao nhiêu làng xóm, sự sống, mà chỉ có hàng hàng lớp lớp cát đụn, xương rồng mọc suốt bờ biển phía đông Bình Thuận , từ Cà Ná chạy vào tới Phù My, giáp ranh với Bà Rịa. Cuộc hành quân đường bộ dài trên 150km, đã góp phần tạo nên những thị trấn trù phú sau này như Long Vĩnh trong vịnh Ròn, Phan Rí ở cửa biển Paric, Phố Hải tại vịnh Ba Giai và Hamulithít (Phan Thiết). Cũng ở vùng này, từ thế kỷ thứ VIII sau TL, người Chàm trong vương triều Panduranga I, đã hoàn thành nhóm đền tháp Pôshanư, thờ cúng các vị thần thánh Ấn Độ giáo, trên đồi Bà Nài cách Phan Thiết về phía nam chừng 7 km. Từ thế kỷ XVII về sau, các thị trấn miền đông Bình Thuận như Long Hương, Phan Rí Cửa, Mũi Né, Phú Hài và La Gi.. càng lúc càng trở nên trú phú và quan trọng, dù từ đầu thế kỷ XX, tỉnh lỵ đã dời từ Hòa Đa về Phan Thiết, chỉ là một Xóm Biển, nằm ngay trên cửa sông Mường Mán, chẳng mấy chốc, đã chiếm lĩnh địa vị số 1 của Phố Hải suốt mấy thế kỷ qua. Trước năm 1975, Mũi Né là thủ phủ của quận Hải Long, giống như La Gàn,Ba Hòn, Cù Mi..những cửa ngõ để Hà Nội tiếp tế mọi thứ bằng đường biển cho bộ đội Bắc Việt, trong mật khu Lê Hồng Phong. Vùng này chạy từ Hòn Hồng,Bãi Xếp, Ốc,Ghềnh, Dơi thuộc Bình Nhơn,Hòa Thắng đối diện với Hòn Nghệ ngoài biển, về hướng bắc Thạch Long, Khánh Thiện cũng như Vùng Rạng, Thiện Nghiệp. Những ngày cuối cùng cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai (1960-1975), theo các sử gia trong và ngoài nước cận đại, thì Bình Thuận là tỉnh duy nhất của miền Trung,từ lính cho tới công chức, kể cả dân chúng, không bỏ chạy và họ đã chiến đấu với cộng sản Hà Nội tới ngày cuối cùng vào sáng 19-4-1975, cũng như đã thực hiện được các cuộc lui quân về Nam an toàn bằng đường bộ lẫn đường biển. Riêng tại mặt trận miền đông Phan Thiết, trong vùng chiến thuật thuộc chi khu Hải Long, bao gồm quận lỵ Mũi Né, các phân chi khu Thện Nghiệp, Thiện Khánh,An Hải,Phước Thiệu Xuân và Thanh Hải..theo báo chí VC, mãi tới 5 giờ sáng ngày 19-4-1975, khi QLVNCH được lệnh di tản chiến thuật khỏi tỉnh Bình Thuật,mới có một đại đội thuộc C/482 VC, tới tiếp thu Hải Long đã bỏ ngỏ. Sau này nhân có một vài cấp sĩ quan tại Bình Thuận đã rời chức vụ trước khi giặc tới như Thiếu Tá Lê Văn Thông, quận trưởngThiện Giáo, hay Thiếu Tá Võ Đạm, Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Đoàn Manh Hoạch, bỏ chạy về Sài Gòn từ đầu tháng 4-1975,tạo cớ cho một vài người, mặc dù mang tiếng là lính, nhưng chưa hề phục vụ tại TK.Bình Thuận, qua đây viết báo, chỉ trích về một trận đánh nào đo, không tên tuổi,ù vào giờ thứ 25 của chiến cuộc, là không có đại bàng, lúc mà các trụ đèn vì không có chân và những tù nhân đang bị giam, nên không thể chạy. Còn hầu như mọi người kể cả một vài tướng lãnh, các sĩ quan cao cấp, công chức, sư ni cha cố, đại trí thức, ca sĩ, đĩ điếm,me Mẽo, thương gia cho tới hàng mệnh phụ, tiểu thư đã dám thí cái trinh tiết ngàn vàng cho cả lính Mỹ da đen, chỉ để xin một chổ ra khỏi nước, hầu giữ mạng trước biển giặc. Sự thật thì tới lúc đó, các đại bàng lớn nhỏ gần như đều có mặt, và có một vài đơn vị Nghĩa Quân đóng tại Xã Phước Thiệu Xuân, Kim Ngọc, dù được lệnh di tản, vẫn nhất định ở lại. Chính Họ đã bắn cháy vài chiếc T54 của Bắc Việt trên QL1, nên Cọng Sản phải chia làm hai cánh quân, một tiến theo đường công hương qua Phú Hài về Phan Thiết. Toán kia theo QL1. Nhưng thôi lích sử vẫn là lịch sử , nhất là các thẩm quyền lúc đó của Tiểu Khu, như Đại Tá Tỉnh Trưởng Ngô Tấn Nghĩa, Phó TT. Phạm Ngọc Cửu và những Sĩ Quan chỉ huy chiến trường như Thiếu Tá Dụng Văn Đối,Thiếu Tá Lê Văn Trung, Thiếu Tá Phạm Minh, Thiếu Tá Phan Sang, Đại Uý Huỳnh Văn Quý, Đại Uý Huỳnh văn Hoàng, Đại Uý Lê Bá Hùng, Đại Uý Bác Sĩ Lê Bá Dũng, Đại Uý Đặng Vũ Đàng, Đại Uý Mai Xuân Cúc, Tỉnh Đoàn Trưởng XDNT. Lê Minh Giang, Thiếu Úy Lê văn Thắng....sau nhiềunăm tù tại Miền Bắc, đều có mặt ở Hoa Kỳ qua diện HO. Chính họ mới là nhân chứng thật sự, có tư cách , để xác nhận củng như phê phán trước quân sử VNCH, rằng cho tới trọn ngày 19-4-1975, các mặt trận tại Bình Thuận, gần như có đại bàng và binh sĩ các cấp tham dự, trong biển máu địa ngục, giữa tuyệt vọng vì phải đối mặt với hằng chục ngàn quân xâm lăng Bắc Việt , có đầy đủ tăng, pháo và sự tiếp tay của lũ ăn chén đá bát, cùng bọn nhân danh đủ thứ để có cớ đâm sau lưng người lính tận tuyệt, khiến cho miền nam VN phải mất, dân tộc VN bị nhuộm đỏ và đất nước mãi đắm chìm trong nhục nhã đói nghèo giữa thiên đàng xã nghĩa, được tạo bởi một phần công quả của một đám người được ưu tiên hậu hỹ suốt 20 năm tại VNCH...
2-Tiểu Khu Bình Thuận, Trước Tháng 4-1975 :
Ngày 20-12-1960 theo tinh thần nghị quyết số 15 của trung ương đảng tại Hà Nội, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, cánh tay nối dài của Quốc Tế Cọng Sản ra đời, mở màn cho cuộc xâm lăng của Bắc Việt. Tại Bình Thuận, bọn nằm vùng như Nguyễn quý Đôn, Nguyễn Như, Năm Trà, Song Mã,Hồ ngọc Lầu, Nguyễn Thị Kim Liên, Trần Thiện Bật, Ngô Đình Cường, Nguyễn Phong Đạm..vẫn bám trụ trong nội thành và không ngớt bày binh bố trận, từ khủng bố bằng quân sự cho tới việc xuí dục các học sinh trung học trong tỉnh , nhân danh tôn giáo , tiếp tay với chúng phá hoại đời sống an lành của người dân hiền hòa miền biển mặn. Sau ngày binh biến 1-11-1963, tình hình chiến sự tại miền nam VN trở nên tồi tệ vì ba năm xáo trộn chính trị do bọn kiêu tăng loạn tướng gây ra, tạo diều kiện cho VC hồi sinh và phá hoại dữ dội khắp nơi. Bình Thuận cũng không tránh khỏi nạn kiếp trên, một mặt thì học sinh biểu tình, tuyệt thực,do chính Nguyễn Văn Minh, bí thư của Chi Bộ Cọng Sản tại Trường TH.Phan Bội Châu, năm 1966 (đã chết trước năm 1975), vạch ngực lấy máu..bắt chính quyền phải hoà hợp mời bắc bộ phủ về cầm quyền. Mặc khác đêm 25-12-1964, C430VC tấn công dồn cảnh sát cổng chử Y, cùng lúc C480VC tấn công các ấp chiến lược ven biên thị xã Phan Thiết, mở màn cho những bửa tiệc máu người dân vô tội, cho tới khi Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, nguyên Trưởng Phòng 2/Quân Đoàn II về nhậm chức tỉnh trưởng vào mùa thu năm 1969, mới vãn hồi được an ninh khắp tỉnh và thị xã Phan Thiết , cho tới ngày tàn cuộc 19-4-1975. Tại Tiểu khu Bình Thuận, năm 1966 tỉnh trưởng là Trung Tá Đinh văn Đệ, khoá 1 sĩ quan trừ bị Nam Định, về sau là dân biểu QHVNCH, giữ chức vụ chủ tịch uỷ ban QP.Ha viện vào năm 1969, nhưng lại là một điệp viên của Hà Nội, lộ mặt sau tháng 5-1975. Về tổ chức, thì thiếu tá Trần văn Chà làm tiểu khu phó kiêm Phó TT.Nội An., về sau TT.Chà lên Trung Tá và làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 53/SD23BB. Đại Úy Lê Trung Hưng làm Tham Mưu Trưởng TK. Trung Úy Lữ Tây Tựu, người PT, một sĩ quan tài giỏi và can trường, từ SD23BB được biệt phái về giữ chức Trưởng phòng 2.TK. Cũng năm đó, trưởng phòng 3/TK là trung úy Nguyễn văn Trị. Riêng đại uý Lê văn Trạch là quận trưởng Hàm Thuận, đại uý Trọng QT.Thiện Giáo, đại uý Kiều văn Út QT.Hải Long, thiếu tá Woàng sắn Cảnh, QT.Hải Ninh, đại uý Lương Vặng,QT.Phan Lý Chàm, đại uý Nguyễn quang Mẫn,QT.Hòa Đa, Thiếu tá Bùi quang Huỳnh QT.Tuy Phong. Về quân sự, thuở đó cấp đại đội DPQ là đơn vị cao nhất trong tỉnh. Về phía bắc có Trung tâm HL.DPQ-NQ Sông Mao do Trung Tá Thanh làm chỉ huy trưởng, còn Thiếu tá Woàng văn Thông thì làm CHT/BCH bắc BT bao gồm 4 quận HD,TP,PLC và HN. Riêng CHT/DPQ-NQ tỉnh là thiếu tá Lê văn Thông, đóng chung với Quân vụ thi trấn và đồn quân cảnh trong TK củ đối diện với vườn hoa và Ty ngân khố, cạnh trường nử TH. Về chủ lực quân biệt phái, chỉ có TD2/44/SD23 của Thiếu tá Xứng bao vùng khắp lãnh thổ. Cuối năm 1967, Trung Tá Nguyễn khắc Tuân thuộc tổng cục quân huấn/BTTM về làm tỉnh trưởng BT thay trung tá Đinh văn Đệ, Trung Tá Tuân ở lại VN đi tù và chết tại Bắc Việt.
Giữa năm 1968, Đại Tá Đàng thiện Ngôn về làm tỉnh trưởng BT thay thế Trung Tá Tuân, còn Thiếu tá Hồ ứng Phùng làm tiểu khu phò và đại uý Lê văn Anh làm Tham mưu trưởng. Mùa thu năm 1969, DT Nghĩa thay DT Ngôn làm TT, Trung Tá Vương Đăng Phong, TKP và Trung Tá Mai Lang Luông TMT. Các phòng sở cũng được thay đổi như sau : Phó Tỉnh Trưởng HC. Phạm Ngọc Cửu, Chánh Văn Phòng Cát Ngọc Giao. ThT Nguyễn văn Mầng (K17SQTD), trưởng phòng Tổng Quản Trị. Đại Uý Nguyễn văn Hiển (K19SQTD) trường phòng 1. Đại Uý Đặng Vũ Đàn (K19SQ/DPQ) trưởng phòng 2. ThT Nguyễn Văn Trị, trưởng phòng 3. ThT Trần Hoạt (chết tại Honolulu), trưởng phòng 4. ThT Phạm Minh (K16VBDL) Trung tâm trưởng TTTV. ThT Trực,trưởng phòng Truyền Tin.Trung Tá Phan Trần Bảo, Trưởng Ty CSQG. Từ năm 1970 về sau, trong đà cải tiến QLVNCH, cơ cấu BCH.TK thay đổi, TrungTá Trí, TKP kiêm TMT, Trung Tá Mai Lang Luông, TTT Bình Định phát triển nông thôn nhưng Lê Minh Giang vẫn Tỉnh Đoàn Trưởng TD.XDNT. Thiếu Tá Nguyễn văn Trí, Trưởng Ty ANQD. ThT Nguyễn Văn Hồng, trưởng khối CTCT. Trung Tá Nguyễn Hòa, chủ tịch Hội Đồng Tỉnh.
Các Quận Trưởng cũng được hoán chuyển từ cuối năm 1974 : Quận Tuy Phong, ThT Hà Văn Thành, Hòa Đa Trung Tá Kiều Văn Út, Phan Lý Chàm ThT Đặng Chánh Anh, Hải Ninh Trung Tá Diêp Sắng Cảnh, Thiện Giáo ThT Lê Văn Thông, Hàm Thuận ThT Dụng Văn Đối, Hải Long ThT Hàng Phong Cao, Xã Trưởng Phan Thiết ThT Nguyễn Thanh Hải, Yếu Khu Châu Thành ThT Cư và CHT.QYV Đoàn Mạnh Hoạch, ThT bác sĩ Võ Đạm.
DD/DPQ được nâng cấp, có 8 Tiểu Đoàn, một Liên Đội Đặc Nhiệm Nông Trường Sao Đỏ và nhiều DD/Biệt Lập, được phối trí như sau : - DD206/DPQ Trinh sát , do DU Lê văn Trò (khóa 19.SQ/DPQ) làm DDT. DD290 Biệt lập của DU Sâm, đóng tại Hải Long. DD283 biệt lập của DU Nguyễn văn Ba, đóng tại Tuỳ Hòa,Thiện Giáo, kiêm Yếu Khu trưởng Phú Long. Ở Hàm Thuận có 2 DD/DPQ biệt lập 127 và 887.
Tại Bắc Bình Thuận có TD248/DPQ của Thiếu Tá Lê văn Trung tại Tuy Phong, sau là ThT Xuân làm TDT., TD212DPQ của Thiếu tá Quân cọi Lương Sơn, Sông Lũy.TD 229/DPQ của ThT Tiến, đóng tại Phan Rí. Sau khi Bắc BT thất thủ, TD này về giữ mặt nam Thị Xã Phan Thiết.
Nam Bình Thuận có 5 TD/DPQ : TD249 DPQ của Thiếu tá Phan Sang, BCH đóng tại núi Tà Dôn, hoạt động tại Long Hiệp, Hòa Vinh,Tuỳ Hòa., những ngày cuối cùng do DY.Huỳnh văn Quý làm TDT thế ThT Sang. TD202DPQ của Thiếu Tá Lương văn Bính hoạt động tại Cây Táo,Long Thạnh., sau DU.Huỳnh văn Hòang XLTV.TDT thế ThT Bính. TD275 /DPQ của Thiếu tá Nguyễn Tư, có 1 DD của Trung Uý Lợi, đóng trên núi Tà Dôn, bảo vệ Khẩu đội Pháo Binh., một DD của DU.Nguyễn Đình Úy đóng tại Hòa Vinh, thành phần còn lại của TD đóng ở Kim Ngọc. TD230DPQ của Thiếu tá Thổ Thêm, hoạt động tại Thiện Giáo, sau giao cho DU Mai Vi Thành XLTV.TDT và DU Trần Đăng Thiệt TDP. TD274DPQ của Thiếu tá Trịnh văn Bình hoạt động tại Bầu Gia,Phú Hội., Thiếu Tá Bình chết tại trại tù ở Bắc Việt.
Tại Bắc BT, BCH quân sự bãi bỏ nhưng thay vào đó là BCH.Liên đoàn DPQ do Đại Tá Lại văn Khuy, nguyên Trung đoàn Trưởng TRD42/SD22BB về làm CHT. BCH Liên đoàn đóng tại xã Lương Sơn, đối diện với mật khu Lê Hồng Phong, gồm 2 TD229 và 212 DPQ, hành quân tại 4 quận miền bắc. Từ tháng 3/1975, Bình Thuận không còn Trung Đoàn 44/SD23 và Chi đoàn 3/8/Thiết kỵ tăng phái, vì những đơn vị chủ lực quân này đã di chuyển hết lên cao nguyên năm 1972. Để bảo vệ an ninh cho thị xã Phan Thiết, từ năm 1970 lập thêm Yếu khu châu thành hay BCH/LD/DPQ/PT đóng tại trại Đinh công Tráng, trước sân vận động Quang Trung, kế trường trung học Bạch Vân, do thiếu tá Nguyễn văn Cư làm CHT. Phía Nam Phi Trường Phan Thiết, có Liên Đội DPQ.Đặc Nhiệm Công Trường Sao Đỏ, do DU Huỳnh văn Quý chỉ huy, hoạt động tới Phú Khánh-Ba Hòn. Về đơn vị Đồng Minh, quan trọng nhất vẫn là Bộ chỉ huy MACV/TKBT đóng tại khách sạn Hồng Hưng, đối diện với trường Tiến Đức, tức là PBC củ trên đại lộ Trần Hưng Đạo. Để góp phần giải tỏa an ninh cho bốn quận miền bắc, cũng như lộ trình đường bộ trên QL1, từ Hòa Vinh tới Phan Rí, ngang qua mật khu Lê Hồng Phong dối diện vói các xạ Long Phú,Lương Son,Sông Lủy, Chợ Lầu,Tịnh Mỹ,Hiệp An, Hiệp Hòa....cơ quan MACV đã phối hợp với TK.Bình Thuận, thành lập lực lượng Dân Sự Chiến Đấu, BCH đóng tại trại Phi Long ở xã Lương Sơn, trại Phi Mã ở xã Phan Rí Thành cạnh Chi khu Hòa Đa, trại Phi Hổ ở ấp Tịnh Mỹ, xã Chợ Lầu, đồn Mara ở Sông Lũy..Tất cả doanh trại Lực lượng DSCD đều có bãi đáp trực thăng, còn các SQ,HSQ chỉ huy đều thuộc các toán A/LLDB VN và SQ-HSQ /LLDB Hoa Kỳ làm cố vấn., chính họ đã vô hiệu hóa cái gọi là mật khu thành cây vách cát Lê Hồng Phong của VC, nơi trú ẩn của các tiểu đoàn địa phương 482 và 840 VC, cũng như Trung đoàn chính quy 812 Bắc Việt của quân khu 7 VC tăng phái. Năm 1970, các trại LLDB tại Bình Thuận đóng cửa nên Biệt kích Mỹ hay LL/DSCH cũng giải thể để thành lập các DD/DPQ., các cấp chỉ huy được mang quân hàm Thiếu úy, còn danh hiệu là DD700,710,720,730/ DPQ/BT, sau đó nhập chung thành Liên Đội 2/32/DPQ/BT do Thiếu Tá Nguyễn thanh Xuân chỉ huy, trách nhiệm bao vùng tư Lương Sơn, Sông Lũy , tới ngả ba Chợ Lầu-Sông Mao. Sau năm 1972, LD2/32/DPQ lại cải danh thành tiểu đoàn 2/212 do thiếu tá Quận chỉ huy cho tới lúc tàn cuộc. Về các đơn vị tăng phái, có Duyên Đòan 28 Hải thuyền, hoạt động bảo vệ vùng duyên hải Bình Thuận, từ mủi Đá Chẹt ở bắc Tuy Phong, vào tới Mũi Đèn Nam Bình Thuận, chỉ huy Duyên Đoàn từ đầu có Thiếu úy hải quân Nguyễn văn Thuận, cựu HS/PBC 1955-1962, đã chết trong lúc di tản. Duyên đoàn trưởng cuói cùng là HQ.Thiếu tá Việt và Duyên đoàn phó, Đại Uý HQ.Cat. Ngoài ra còn có Biệt đội quan sát L.19, thuộc Phi Đòan quan sát 215, SD2 Không quân từ Nha Trang tăng phái cho TK/BT giúp P2,3/TK bay quan sát bao vùng hành quân, mở đường và hướng dẫn pháo binh tác xạ. Về thiết kỵ, trước năm 1973 có các chi đoàn 2 và 3/8 thuộc SD23 tăng phái.. Tết Mậu Thân 1968 trung úy Hàng phong Cao làm chi đoàn trưởng 2/8 giải tỏa Phan Thiết, sau biệt phái về làm Quận Trưởng Hàm Thuận từ thời Đại Tá Ngô tấn Nghĩa. Riêng Chi Đoan 2/8 giao cho Đại Uý Đệ, nguyên DDT 948 DPQ, lúc đó hoạt động tại Tuỳ Hòa và Phú Long. Đại đội này về sau di chuyển ra Hòa Đa và giao cho Đại uý .Mai xuân Cúc, nguyên trưởng ban 2/ quận Hòa Đa của Quận Đối làm Đại Đội Trưởng và những ngày cuối cùng là đơn vị đóng trong thị xã Phan Thiết cho tới sáng 19-4-1975, Bình Thuận hoàn toàn thất thủ, mới xuống tàu HQ tại Kim Hải, di tản về Bà Rịa-Vũng Tàu.
3- Những Ngày Chiến Đấu Cuối Cùng
Của TK.Bình Thuận, Vào Cuối Tháng 4-1975 :
Theo VC, từ sau năm 1970 qua chương trình bình định của Đại Tá Nghĩa, đã khiến các cơ sở nằm vùng cũng như bộ đội trong tỉnh lâm vào tình trạng gần như bế tắc và bị tổn thất nặng nề , trong đó phần lớn do mìn Claymore gây ra. Từ sau Phước Long thất thủ vào đầu năm 1975, tiếp theo là Ban Mê Thuột mất ngày 14-3-1975, VC Bình Thuận bắt đầu ngoi lên và phá hoại khắp, nơi như đốt các cây xăng số 6,8, tấn công đồn cảnh sát Đức Long. Từ ngày 5-4-1975, Chi Khu Thiện Giáo di tản chiến thuật trên Liên tỉnh lộ 8 .Nhân dịp này, thiếu tá quận trưởng Lê văn Thông và Chi khu phó là DU.Lê văn Tuân, đã trốn về Sài Gòn nhưng TD.230/DPQ của DU Mai Vi Thành và Các DD/DPQ biệt lập của Quận, vẫn không rã ngủ. Phan Thiết, Hải Long lúc đó gần như tràn ngập người tị nạn khắp miền Trung đổ xô về bằng đủ mọi phương tiện, đường bộ, tàu thuyền..và được Ty Xã Hội trợ cấp giúp đở tận tình. Để giải toả bớt căng thẳng trong thị xã, từ ngày 13-4-1975 Tỉnh cho thành lập tại Thiện Khánh và Thiện Nghiệp các trung tâm tiếp cư tạm thời dưới các rặng dừa và sân vận động, để chờ tàu HQ vào di tản họ tới Vũng Tàu. Do trên tình hình tại Hải Long thêm phức tạp, một phần từ những phần tử xấu như đào binh, đặc công trà trộn gây rối loạn, cũng như công khai cướp bốc tài sản của dân chúng tại địa phương. Mặt khác, bọn VC nằm vùng thừa cơ hội dậu chưa đổ, nhưng bìm đã leo khắp nơi với sự ra đời của cái gọi là ủy ban khởi nghĩa, may sẳn cờ, khẩu hiệu..và các đội tự vệ võ trang em bé quàng khăn đỏ.. Từ ngày 15-4-1975, tình hình Hải Long càng thêm nặng nề vì có nhiều đơn vi từ QD1 và 2 ngoài Trung đến đây bằng đường biển. Riêng các xóm đạo của người Bắc di cư, tại Thanh Hải, Cầu Ké, Vĩnh Thủy, Vĩnh Phú đã kéo tàu thuyền chạy về Long Hải, Vũng Tàu. Tuy nhiên, tình hình mặt trận miền đông và Phan Thiết, vẫn chưa có gì nguy ngập, tới ngày 17-4-1975 Chi Khu Hải Long chưa loan và tất cả các đại bàng kể cả quận trưởng Hàng phong Cao vẫn có mặt , trong các vị trí phòng thủ gần như 24/24.
A- TỬ THỦ PHÚ LONG :
Ngày 16-4-1975 phòng tuyến Phan Rang vở, trước sự tấn công của mấy sư đoàn Bắc Việt, với xe tăng, đại pháo tối tân của Liên Xô, Trung Cộng cà cả khối cọng sản quốc tế. Trong lúc VNCH gần như kiệt quệ về nhân lực cũng như trang bị, vì người Mỹ phản bội, thất hứa. Gần hết Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Đoàn III, trong đó có Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, cũng như Tư Lệnh Sư Đoàn 6 KQ là Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Lữ Đoàn Trưởng LD2/ND là Đại Tá Nguyễn Thu Lương và nhiều Sĩ Quan cao cấp khác, đều lọt vào tay giặc tại Phan Rang.
Cũng trong ngày đó, các lộ quân Bắc Việt, từ Nha Trang, Đà Lạt, ồ ạt theo QL1 tiến vào Bình Thuận. Cho nên trách sao được bốn chi khu Tuy Phong Hòa Đa, Phan Lý Chàm, Hải Ninh với quân số chưa tới 3 Tiểu Đoàn, mà chỉ toàn DPQ + NQ, thì lấy chi chọi với tăng pháo và biển người.. Cũng nhờ có nhiều chiến hạm của BTL. Vùng 2 Duyên Hải , đã bất chấp pháo địch, ghé sát bờ , vớt được nhiều đơn vị đã tham chiến tại Phan Rang, cũng như các Chi Khu của bốn quận miền Bắc. Nói chung tất cả quân các cảnh tại đây, kể luôn Tiểu Đoàn 274 DPQ của ThT Xuân, lúc đó đang đóng tại cầu Đá Chẹt, giáp ranh với Cà Ná, cũng di tản được tới Vũng Tàu bằng ghe đánh cá , tại Long Hương và Phan Rí Cửa.
Như vậy từ đó, ranh giới của tỉnh Bình Thuận với giặc Hồ là thị trấn Phú Long, trên QL1, cách Phan Thiết khoảng 10 km, về phía bắc. Ở mặt trận miền đông, Chi Khu Hải Long vẫn còn và BCH.Tiền phương của TK.Bình Thuận, do Đại Tá Tỉnh Truởng , Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, vẫn đóng trên Lầu Ông Hoàng. Trong thị xã, còn có 2 BCH khác, một do Trung Tá Trí, TMT/TK kiêm CHT/DPQ+NQ, đóng tại Căn Cứ của Duyên Đoàn 28 tại của biển Thương Chánh. Còn BCH.Hành Chánh Tỉnh thì do Phó TT là Phạm Ngọc Cửu, cùng với các Trung Tá Hòa, Luông, ThT Huỳnh văn Việt (Trưởng Ty CCB/BT) chỉ huy, đóng ngay trong Tòa Hành Chánh, lúc đó coi như lãnh đạn pháo kích của VC hằng giờ.
Chiều ngày 12/4/1974, Đại Uý Huỳnh Văn Quý, lúc đó đang là Liên Đội Trưởng Liên Đội Đặc Biệt, đang bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ, ở phía nam phi trường Phan Thiết, thuộc Ấp Bình Tú, xã Kim Bình, quận Hàm Thuận, nơi có mấy ngàn Viêt Kiều hồi hương từ Kampuchia về. Ông được chỉ đinh làm Tiểu Đoàn Trưởng , TĐ 249 DPQ, lúc đó do ThT.Phan Sang chỉ huy. Việc bàn giao đơn vị được thực hiện ngay lúc 7 giờ tối cùng ngày, với nhiệm vụ TD249 phải tái chiếm lại Phú Long, đã mất từ mấy ngày qua. Vì quân số quá hao hụt, nên TK biệt phái thêm cho TD, Đại Đội 283 Biệt Lập của Đại Uý Nguyễn Văn Ba, một sĩ quan LLDB rất gan dạ và tài giỏi. Ngoài ra Đại Uý Nguyễn Văn Hạnh, cũng được chỉ định làm TDPhó/249 thay DU Huỳnh Đắc Hoá. Ngày 13-4, sau khi hết nhiệm vụ, ThT Phan Sang được TK.Bình Thuận, trả về đơn vị gốc là SD21BB. Lúc 4 giờ chiều ngày 13-4-75, xe chở TD249 và DD283, từ Phan Thiết tới Phước Thiệu Xuân thì đổ quân và tái chiếm Phú Long bằng ba cánh : - 1 do DD283 tăng phái của DU Ba và DD3/249 của Trung Uý Thời, đánh từ Lò Vôi tới Chợ và Cầu Phú Long. Cánh 2, do DD4/249 của Trung Uý Thành và Trung Đội Thám Sát của TD, đánh từ Lò Vôi tới Trụ Sở Xã Phú Long. Cánh 3, do DD1/249 của DU.Đáp, tấn công hướng đông. Riêng DD2/249 của Đại Uý Nguyễn Chánh Trúc, làm lực lượng trừ bị cho TD. Trận chiến rất khốc liệt, kể cả TrD6/SD2BB biệt phái, mấy ngày trước vẫn phải rút về Phước Thiệu Xuân, vì hỏa lực của giặc rất mạnh, lại chiếm được nhiều cao ốc trên QL1, đặt súng Đại bác 57 ly và B40 bắn từ trên cao xuống. Thêm vào đó là pháo 105 ly, mà giặc đã chiếm được , bắn liên tục từ Bình An sang, làm thương vong nhiều người, trong đó có TrU Thời (DDT) và TrY Nhàn (DDP) của DD2/249, tại Ấp Phú Trường. Vì vậy tới ngày 14-4-75, TD phải đánh cận chiến bằng lưu đạn, cũng như tranh giành từng thước đất khắp các vị trí, mới chiếm lại được xã Phú Long, ngoại trừ các ngôi chùa, không dám đụng tới vì sợ hư hại chốn tôn nghiêm, kể cả sự yểm trợ của Không Quân và Pháo Binh tác xạ.
Coi như TD249 và DD283 biệt lập cố thủ tại Phú Long, cho tới ngày 18-4-1975, thì nhận được lệnh của TK/BT báo, là sẽ có Đơn Vị khác lên thay thế, cho TD đã quá mệt mỏi và tổn thương nhiều, trong mấy ngày tử chiến.
Vì Miền Bắc BT bỏ ngỏ từ khi Phan Rang thất thủ, nên Binh Đoàn Bắc Việt tiến vào Phan Thiết rất nhanh và sáng ngày 18-4-75, đã tới Tà Dôn. Bởi vậy Đại Uý Quý., xin Đại Tá Nghĩa, tăng cường cho TD249, Chi Đoàn Thiết Giáp của SD2BB, đóng tại Phước Thiệu Xuân, cùng với TrD 6/SD2BB nhưng TK không đáp ứng, vì các Đơn Vị tăng phái này, đang chuẩn bị rút về Nam, khi biết tin quân Bắc Việt sắp tới Phú Long. Khoảng 6 giờ chiều ngày 18-4, qua hệ thống truyền tin, Đại Uý Quý, biết BCH. Tiền Phương của Đại Tá Nghĩa, đóng trên Lầu Ông Hoàng, đã rút ra bờ biển, theo đường Phú Hài về Phan Thiết. Dù nhận lệnh cố thủ Phú Long, nhưng Quý không thể chấp hành lệnh, khi tất cả các đơn vị,kể cả Thiết Giáp đã rút. Lúc đó, coi như TD249 và DD283/DPQ là đơn vị đoạn hậu. Tuy nhiên cuộc rút quân, chỉ thực hiện, khi biết xe tăng địch đã tới Xã Tuỳ Hòa, vào lúc 7 giờ tối. Theo kế hoạch, DD4/249 đóng ở Cổng Bắc xa nhất, rút trước. Còn DD2/249 là thành phần trừ bị, nên rút sau cùng. Vì nghĩ rằng sẽ về tái chiếm lại , nên DU Quý không cho phá Cầu Phú Long, ngang sông Cả, trên QL1, như lệnh của TK/BT, mà chỉ gọi Hải pháo . Trong lúc TD249 rút quân, thì máy của Thiết Giáp/SD2BB, liên lạc ngăn chận, bảo chờ gở mìn. Thật sự , Đơn Vị này đã rút , nhưng muốn gạt DPQ ở lại đoạn hậu,cho an toàn. Tại Lầu Ông Hoàng, lúc đó còn có DD1/275DPQ của Đại Uý Nguyễn Đình Uý, từ Tà Dôn rút về. Còn DD290/DPQ biệt lập của DU Sâm, thì từ lâu ở đó, để bảo vệ BCH nhẹ của TK và Khẩu Đội Pháo Binh 105, đóng tại đây. Cuối cùng trong đêm 18-4-1975, TD 249 và DD283 rút về Rạng và được thuyền đánh cá, chở tới Vũng Tàu. Riêng DD1/275 của DU. Uý và DD290 của DU.Sâm, chỉ rút khỏi Lầu Ông Hoàng, khi xe tăng VC tấn công . Tại QL số 1, dù SD2/BB cũng như các TD249/DPQ và TD275/DPQ rút về Phan Thiết, nhưng các Trung Đội Nghĩa Quân vẫn ở lại, dù có lệnh di tản. Chính Họ đã bắn cháy một T54 , trước Nhà Thờ Kim Ngọc, trong khi Mặt Trận Không Có Đại Bàng, không phải vì Đại Bàng khiếp nhược bỏ chạy, mà vì " Thời Thế Thế Thời Thời Phải Thế ".
** Thiếu Uý Lê Văn Thắng, Ban 3/TD/249DPQ/BT viết lại trân Phú Long :
Nhớ lại "những ngày tái chiếm và tử thủ Phú Long " Thiếu Uý Lê văn Thắng, Phụ Tá Trưởng Ban 3/TD249/DPQ, hiện tạm cư tại Úc, cũng viết gần giống sử liệu :
Sau khi xuất viện từ bệnh viện Cà Mau, tôi được sự vụ lệnh thuyền chuyển về Bình Thuận, tháng 12/1974 .Tôi về lại Bình Thuận thân thương, nhìn lại trường cũ, thầy xưa, gặp lại bạn bè năm nào trong vui sướng. Tuy nhiên, về lại Bình Thuận lần này, tôi được đưa về Tiểu Đoàn 249/ ĐPQ của Thiếu Tá Phan Sang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đóng lưng chừng núi Tà Dôn, cũng như ở Bình An và Bình Lâm, trên Liên Tỉnh Lộ 8 (Phan Thiết-Ma Lâm). Vì vết thương còn nhiều mủ, nên được làm phụ tá Ban 3 của Trung Úy Ba. Tôi chưa quen nhiều người tại Phan Thiết., ngoài những sĩ quan trong tiểu đoàn, như Trung Úy Thời (người Lại An), Đại Uý Tập (Mũi Né), Thiếu Úy Ba (bạn học cũ, PBC 72, Lại An), Thiếu Úy Quận (Y Sĩ Tiểu Đoàn).. Điều tôi thấy sung sướng là cấp số trong đơn vị đầy đủ. Tôi tự hào về Bình Thuận. Theo chỗ tôi biết, mỗi đêm ông anh em về nghỉ, và luân phiên hết người nọ đến người kia. Khi trở lại, có những anh em đem cá, mực lên nhậu chơi. Tinh thần này đã khác biệt hoàn toàn với những đơn vị của tôi tại Bạc Liêu. Tình huynh đệ chi binh, tình chiến hữu thật là đậm đà.
Khi còn đóng quân tại núi Tà Dôn, Trung Úy Ba đề cử tôi đi theo đoàn khai quang của Công Binh vài ngày để tiếp ứng khi cần. Khai quang gần Tùy Hòa. Ngày khai quang cuối cùng, màn đêm buông xuống. Hai anh Công Binh rủ tôi vào quán nhậu rồi đưa tôi về sau. Tôi không đi. Tôi gọi máy về nhờ Tiểu Đoàn cho người đến rước. Khi tôi được rước về Tiểu Đoàn, vừa bước xuống xe thì hay tin hai anh Công Binh khi nãy đã bị VC bắn lật xe chết rồi. Thế là tôi thoát chết trong gang tất.
Tháng 3/1975, mất Ban Mê Thuộc, "tàn quân" chạy trên quốc lộ 1. Tôi chỉ nghe kể là chết chóc nhiều trên đường chạy loạn. Người giết người để cướp vàng, tiền. Xe hết xăng bị đẩy khỏi đường ..Về đến Phan Thiết, những người này đốt kho xăng, bắn vào các tiệm ở đường Gia Long, đốt chợ Phan Thiết ... Sự thật thì tôi không nắm vững vì luôn luôn có mặt tại trận tuyến. Chúng tôi không lãnh lương trọn hai tháng 3 và 4/1975.
Đến đầu tháng 4/1974, Đại Úy Huỳnh Văn Quý thay thế Thiếu Tá Sang, làm Tiểu Đoàn Trưởng và tái chiếm Phú Long. Thị trấn này đã bị VC chiếm hai bên đường Quốc Lộ 1. Chúng tôi di chuyển lên từ hướng Phước Thiện Xuân, cách VC đang cố thủ tại Quốc Lộ 1 khoảng 50 thước. Nhiệm vụ thật nặng nề, vừa tái chiếm Phú Long, vừa bảo vệ tài sản và nhà cửa dân.
Đối với chiến thuật chiến tranh trong thành phố mà chúng tôi học được qua phim ảnh, gnười Mỹ đã dùng lựu đạn và vũ khí để chiếm lại từng căn nhà. Khi chiếm được khu vực nào thì nhà cửa của khu vực đó coi như thê thảm. QLVNCH thì nghèo nàn hơn, không thể dùng số lượng đạn dược như vậy cho chiến tranh trong thành phố. Vả lại, chúng ta cần bảo vệ cả tài sản dân.
Lúc này, dân Phú Long đã di tản hết. Tiểu Đoàn chúng tôi tiến từng bước một, chậm, vì VC nằm trong bóng tối đâu đó trong khi mình di chuyển trên hướng quan sát của địch. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đóng quân nới nào thì chỉ trong vòng 10 phút, VC pháo tới đó. Có lần, Đại Úy Quý đã đơn thân độc mã ra quan sát chiến trường. VC bắn vào áo giáp của ông mà đầu đạn vẫn còn trong áo.
Sau vài ngày, chúng tôi cũng đã giải tỏa được khu vực bên này Quốc Lộ 1, tiến đến được mặt đường, có chốt đóng ngay cầu Phú Long.
Tin đồn bắt đầu bất lợi là có nhiều đoàn xe VC tiến về Phan Thiết, Đại tá Nghĩa đã dời BCH từ Lầu Ông Hoàng ở Phú Hài, tới Bải Thương Chánh để chỉ huy và sẵn sàng rời bỏ Phan Thiết bất cứ giờ phút nào.
Trong tình trạng khẩn cấp, tôi được lệnh đi với một người xạ thủ súng cối 81ly, đến đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân. Tại đây, tôi làm bảng tác xạ, để kịp thời yểm trợ các vị trí khi được thông báothông báo, bằng khẩu súng cối 81 ly, khá chính xác.
Thời gian không còn tác dụng trên chúng tôi hay nói đúng hơn, tôi không còn biết đến ngày tháng nữa. Sau này, tôi chỉ dựa vào sách để biết ngày mất Phan Thiết chứ thật tình tôi không biết là ngày 18, 19 hay 20/4/75.
Trong ngày cuối cùng, Trung Úy Ba gọi tôi lên đài quan sát coi VC đi về hướng nào. Đài quan sát tuy cao nhung tôi không thể thấy được gì. Đêm ấy, tôi được lệnh bắn cối dồn dập nhưng chính xác về các tọa độ được cho. Chúng tôi bắn đến viên đạn cuối cùng. Khi tôi báo cáo hết đạn 81, tôi được lệnh xếp càng súng, bỏ sẵn trên xe và đợi lệnh . Trung Úy Ba vừa cười vừa nói với tôi: " Thắng, mày đừng có chạy trước nghen". Tôi trả lời: " Tôi sẽ chờ Tiểu Đoàn, có di thì cùng đi, có chết thì cùng chết".
Tôi theo dõi tình hình qua máy truyền tin của tôi. Một lát sau, có báo cáo từ chốt cầu Phú Long là xe tăng VC đến cầu Phú Long. Họ chạm trán nhưng không bên nào nổ súng, xin lệnh từ Tiểu Đoàn. Đại Úy Quý gọi về Tiểu Khu xin lệnh. Lệnh từ Tiểu Khu, Tiểu Đoàn chúng tôi về "Mã Trái Bí" chờ lệnh mới. Xe với súng cối chúng tôi chờ sản trước cổng đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân. Tiểu Đoàn chúng tôi di chuyển gần tới chỗ tôi.
Trưởng đồn Nghĩa Quân Phước Thiện Xuân mà tôi quên tên đã nói rằng: "Tiểu Đoàn chạy kệ họ, mình phải tử thủ. Đứa nào chạy tao bắn bỏ mẹ".
Chính câu nói này làm tôi vẫn còn thấy nhục nhã từ ngày cuối cùng của Phú Long, của Phan Thiết. Sau ngày mất Phan Thiết, trong thâm tâm tôi, tôi luôn luôn kính phục người trưởng đồn Nghĩa Quân này. Khi cải tạo ra, tôi hỏi thăm tin tức về anh ta và nghe nói anh ấy vào rừng tiếp tục chiến đấu. Tôi theo Tiểu Đoàn di chuyển về Mã Trái Bí (mật mã của Lầu Ông Hoàng), nằm đó chờ lệnh. Khoảng nửa tiếng sau, chúng tôi liên lạc được với Tiểu Khu và được lệnh về tăng phái cho Thiếu Tá Hàng Phong Cao (Hải Long). Tiểu Đoàn di chuyển suốt đêm về Mũi Né. Ai cũng mệt mỏi nhưng không có lệnh nghỉ ngơi. Tới gần sáng, chúng tôi đến cuối Rạng, gặp nhiều người lính bỏ ngủ, họ nói Thiếu Tá Cao (Chi Khu Trưởng Hải Long) đã ra tàu đi rồi. Vì Chi khu đả bỏ ngõ, nên Đại Uý Quý phải tìm thuyền đánh cá, để đưa TD249/DPQ về Vũng Tàu
B-TỬ CHIẾN TRONG THÀNH PHỐ PHAN THIẾT:
Trong ngày 18-4-75, tình hình Phan Thiết đã bắt đầu hỗn loạn, dù giặc vẫn còn ở rất xa, bên kia phòng tuyến của các Đơn Vị DPQ/BT đang tử thủ tại Tường Phong, Đại Nẳm, Phú Hội, Phú Long và Quận Hải Long. Từ 7 giờ đêm 18-4, sau khi BCH Nhẹ của Đại Tá Nghĩa, đóng trên Lầu Ông Hoàng, rút về Phan Thiết ra biển, thi TrD 6/SD2BB và Thiết Giáp, cùng các TD249/DPQ, TD275/DPQ, DD283 và 290/DPQ biệt lập cũng rút, cùng lúc với Chi Khu Hải Long. Trong Thị Xã Phan Thiết, lúc 9 giờ tối đêm 18-4, xe tăng và bộ binh của Bắc Việt, đã chiếm được Tòa Hành Chánh, nhưng khắp các vị trí, vẫn còn nhiều Đơn Vị DPQ /BT chống trả như DD206 Trinh Sát của Đại Uý Lê Văn Trò, ĐĐ954/DPQ của Đại Uý Mai Xuân Cúc, Tiểu Đoàn 229/DPQ của ThT Tiến, Trung Tâm Yểm Trợ TV của ThT Phạm Minh, Yếu Khu Châu Thành của ThT Cư và Xã Châu Thành Phan Thiết của ThT Hải. Nói chung, khắp thành phố lửa đạn mịt mù, VC tuy vào được trong thành phố nhưng chỉ cố thủ trong các vị trí vừa chiếm được, chứ không dám bung ra trong đêm, vì chỗ nào cũng còn quân ta chiến đấu , chứ không tan hàng như các địa phương khác. Trong lúc đó, máy truyền tin của ba BCH.Bình Thuận vẫn hoạt động liên tục, ra lệnh cũng như hướng dẫn các đơn vị , tới các vị trí an toàn, chờ các chiến hạm của BTL.Vùng 2 Duyên Hải, vào vớt chở tới Vũng Tàu.. Trong đêm 18-4, Đại Tá Nghĩa, sau khi được một tàu đánh cá chở ra chiến hạm, liền được một trực thăng của QD3, chở ngay về Vũng Tàu, cùng với Đại Uý Đặng Vũ Đàng, Trưởng Phòng 2/TK, để chuẩn bị kế hoạch phương tiện, tiếp đón các Đơn Vị DPQ+NQ/BT , đang trên đường di tản tới. Có là nhân chứng sống thực trong giờ thứ 25 của VNCH, mới biết nào là thân phận của người lính Miền Nam.
Gần nửa đêm 18-4-75, Thiếu Tá Nguyễn Cư, Yếu Khu Trưởng YK Châu Thành, nhận lệnh trực tiếp của BCH.TK/BT ban lệnh cho tất cả các Đơn Vị DPQ đang chiến đấu, trong thành phố, cố gắng tập trung về Bến Tàu Kim Hải, phía sau Phi Trường và QYV. Đoàn Mạnh Hoạch Phan Thiết. Do đó, ngay trong đêm, DĐ954/DPQ của DU.Mai Xuân Cúc , chiến đấu tại Ấp Đại Hòa, đã phải vượt sông Cà Ti, tới Quận Đường Hàm Thuận ở Ngả Hai, rồi từ đó băng ngang qua Phú Khánh, đến điểm tập trung Kim Hải.
Kính phục nhất là tại QYV. Đoàn Mạnh Họach, trong lúc giặc gần như đã chiếm trọn thành phố, thì trong bệnh viện, ngoại trừ Chỉ Huy Trưởng, Thiếu Tá Bác Sĩ Võ Đạm (Hiện có phòng mạch tại Boston-Mỹ), khuân vác tất cả đồ đạc và cõng vợ con, trốn về Sài Gòn, để kịp qua Mỹ, trước khi giặc vào. Còn đơn vị, từ các Y,Nha, Dược Sĩ cho tới quân nhân cơ hữu các cấp , dù biết giờ 25, vẫn miệt mài làm việc, cứu sống bao sinh mệnh của thương binh và đồng bào chiến cuộc. Do nhu cầu, Đại Uý Y Sĩ Lê Bá Dũng, khi vào Cục Quân Y tại Sài Gòn lãnh thuốc men và y cụ, đã được Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục trưởng Cục QY, bổ nhiệm làm Q.Chỉ Huy Trưởng , đồng thời ban báo thị tầm nã, việc đào ngũ của ThT Đạm. Ngày 8-4-75, Đề Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lênh Hải Quân có tới Phan Thiết họp với Đại Tá Nghĩa, để soạn thảo kế hoạch di tản đường biển, nếu Bình Thuận bị nguy cấp. Dịp này, TK đã cấp cho QYV một máy truyền tin PRC25, nhờ vậy có thể cập nhật tin tức từng giờ.
Trong ngày 18-4-75, dù Phú Long mịt mù lửa đạn, nhưng mặt trận Nam Phan Thiết vẫn còn an ninh, vì đã có sự phòng thủ của Liên Đoàn DPQ.Hàm Thuận của Thiếu Tá Dụng Văn Đối, Quận Trưởng. Ngoài ra khu vực này còn có nhiều đơn vị khác hiện diện, như Liên Đội Đặc Nhiệm Nông Trường Sao Đỏ và nhất là 2 TD/BDQ di tản từ Quảng Đức về chờ phương tiên vào Nam. Vì vậy QYV. Đoàn Mạnh Hoạch rất an toàn. Chừng 7 giờ tối, VC đã vào Phan Thiết và ác chiến trong thành phố, QYV nhờ có máy PRC25, nên biết tin tức. Cùng lúc, lại có một đơn vị của Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận, do Thiếu Tá Phạm Minh hướng dẫn, trên đường tới Bến Tàu Kim Hải, có liên lạc với QYV cho biết tin tức chiến sự. Theo Phó Tỉnh Trưởng BT. Phạm Ngọc Cửu, lúc đó còn đang ở Phan Thiết, thì hai chiếc xe thiết giáp tắt đèn chạy ngang qua đó, là của quân ta, chứ VC tới trưa ngày 19-4-1975 mới dám lên khu vực này, sau khi QLVNCH đã di tản hết.
11 giờ 30 khuya cùng ngày, DU Dũng mới nhận được lệnh di tản. Cũng may, địa điểm của bệnh viện nằm sát bờ biển,lại đã làm sẳn con đường, nên việc di chuyển thương bệnh binh ra tàu Hải Quân, cũng không trở ngại. Mặc dù lúc đó chỉ còn một phần quân nhân ở lại, nhưng cũng đã di tản được 200 thương bệnh binh .
Từ sáng ngày 19-4-1975, các đơn vị DPQ /BT đã tập trung rất đông trên bãi biển Kim Hải, để chờ tàu vào rước. Buổi sáng nước thủy triều xuống, nên chiến hạm không thể vào sát bờ, nên phải thả các loại tàu há mồm LCM vào rước các đơn vị. Loại tàu này có thể chở được tới 2 thiết vận xa M113. Công tác hoàn tất lúc 12 giờ trưa nhưng các chiến hạm của Vùng 2 Duyên Hải, vẫn đậu ở ngoài khơi Phan Thiết chờ lệnh, tới 2 giờ trưa mới lên đường và cập bến Vũng Tàu lúc 2 giờ sáng, ngày 20-4-1975. Tại Bến Đình, lúc đó có sự hiện diện của Đại Tá Vũ Huy Tạo, Thị Trưởng Vũng Tàu và Đại Tá Ngô Tấn Nghĩa, TT.BT chực sẵn, đón các đơn vị, đưa về Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp, tái trang bị và tiếp tục chiến đấu khắp lãnh thổ Phước Tuy, cho tới khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, mới rã ngủ. Sau đó, tất cả các Sĩ Quan của TK.Bình Thuận, bị chở về Xuân Lộc và tập trung trong doanh trại củ của Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 43/SD18BB và đi cải tạo chung với Sĩ Quan của SD5BB, khắp các trại tù miền Bắc. Ngoài ra, đêm 18-4-1975, Thiếu Tá Dụng Văn Đối, QT.Hàm Thuận , đã chỉ huy các Tiểu Đoàn DPQ, Liên Đội NQ, Cán Bộ XDNT, Cảnh Sát, Viên Chức Xã Ấp thuộc Chi Khu, cùng với Pháo Binh và một Chi Đội Thiết Giáp V100, di tản bằng đường bộ vào tới Bình Tuy. Sau đó được tàu Hải Quân chở vào Vũng Tàu và tăng phái cho Sư Đoàn 22 Bộ Binh của Tướng Niệm, đang trấn giữ tại Cầu Bến Lức-Long An , cho tới khi tàn cuộc.
20-4-1975, BT coi như đã lọt vào tay Hà Nội, VC lập ra ủy ban quân quản thị xã, do thiếu tá VC Từ quảng Tuyên làm Chủ tịch, khắp nơi lập ra 16 địa điểm để các quân, công,cán,cảnhVNCH tới khai báo trình diện, để cùng nhau vào địa ngục trần gian tại Cà Tót, Huy Khiêm,Sông Mao và mọi nẽo đường tận tuyệt.
Cuộc chiến đã qua nhưng không bao giờ xoá nhòa nổi vết tích trong tâm trí người Việt. Vinh hay nhục thì nay đã được lịch sử xác nhận, nên không cần phải ca ngợi hay biện minh về cái thua hay cái thắng, một công việc thừa thải khi mặt thật của cộng sản Hà Nội được phơi bày suốt 30 năm qua., nên chỉ xin bạn bè ai có dịp về thăm quê hương miền biển măn, đừng quên :
'có xuống bến qua nghĩa địa
đừng quên mặc niệm những hồn oan
bỏ mình trên biển khi di tản
u uất bao năm nỗi hận hờn
đừng quên thăm lại Quân Y Viện
thắp một nén hương mộ bạn mình
lính trận dân lành chung buổi giổ
tháng Phan Thiết hận đao binh ..'
Xóm Cồn tháng 3-2005
Mường Giang
TÀI LIỆU THAM KHẢO : của Quý NT.Đại Tá Tỉnh Trưởng Ngô Tấn Nghĩa, Đốc Sự Phạm Ngọc Cửu Phó TT, Dụng văn Đối Quận Trưởng Hàm Thuận, Đại Uý Huỳnh văn Quý Tiểu Đoàn Trưởng DPQ, Đại Uý Mai Xuân Cúc, Lê văn Thắng.